Saturday, March 23, 2013

Chương V: Rối như tơ vò


Phòng họp báo của Lầu Năm Góc

Manor và Simons chỉ ngủ được vài giờ trước khi được hộ tống đến văn phòng của Laird, tại phòng 3E 880 ở Lầu Năm Góc. Moorer đã ở đấy và chào đón hai người rất nồng nhiệt. Laird xin lỗi đã phải gọi họ về gấp rút như vậy vì chương trình có một vài thay đổi. Ông ta giải thích kỹ việc này trong bữa điểm tâm.

Laird hướng dẫn hai người sang phòng ăn riêng, ở đấy người phát ngôn của Lầu Năm Góc là Dan Hen-kin đã có mặt. Cả năm người ngồi vào bàn rộng đặt ngay giữa phòng. Đây là một phòng rộng đủ chứa 120 người dành vào việc tổ chức các buổi tiệc liên hoan. Đúng ra thì phòng này thường được dùng cho các buổi tiệc trao giải thưởng hoặc tiệc mừng một nhân vật nào đó được Tổng thống bổ nhiệm vào Lầu Năm Góc. Nhìn qua cửa sổ, bên kia là dòng sông Pô-tô-mác, người ta thấy rõ đài kỷ niệm Giê-phéc-sơn, tượng đài Oa-sinh-tơn và toà Nhà Trắng.

Trong khi Laird giải thích những việc gì đã xảy ra thì các chiêu đãi viên người Philippines mặc đồng phục màu xanh đang rót mời nước cam tươi và cà phê. Laird cho biết, Nhà Trắng đã điện thoại cho ông ta ngay sau khi biết được tin trại tù Sơn Tây trống rỗng và các toán lính tập kích đã trở về an toàn. Laird được lệnh mời hai vị chỉ huy cuộc tập kích về ngay Oa-sinh-tơn để Tổng thống đích thân trao huân chương cho họ. Ngoài hai vị chỉ huy, Tổng thống cũng muốn tặng thưởng huân chương cho hai binh sĩ khác nữa. Nhà Trắng nhấn mạnh là một trong hai binh sĩ này phải là người da đen.

Manor và Simons được yêu cầu cho biết tên hai binh sĩ ấy - đúng theo các điều khoản đã được văn phòng Tổng thống ấn định (văn phòng này ở số 1600 đại lộ Pen-si-va-ni-a) - nhưng hai vị sĩ quan chỉ huy này có vẻ không hào hứng cho lắm khi nghe tin này. Cả hai đều nghĩ rằng tất cả những ai đã đổ bộ xuống trại tù Sơn Tây đều phải được đối xử bình đẳng. Laird và Me-rơ thông cảm ý nghĩ này nhưng đã giải thích là không thể làm gì hơn được. Mayer đã được lệnh soạn thảo gấp các bản tuyên dương công trạng. Manor và Simons cứ việc chọn lựa hai binh sĩ trước rồi sẽ xem xét lại các bản tuyên dương sau. Nhu cầu tranh thủ dư luận quần chúng của Nhà Trắng đã thắng được những quan niệm về lẽ công bằng của Manor và Simons.

Lễ trao gắn huân chương sẽ được tổ chức công khai. Laird nói thêm: Như vậy, có nghĩa là Lầu Năm Góc sẽ phải tiết lộ thêm nhiều chi tiết về cuộc tập kích Sơn Tây mà trước đây đã phải che giấu. Kể từ lúc Nhà Trắng ban hành chỉ thị này thì chương trình tuyên bố công khai có một chiều hướng mới: Dù ở trong trường hợp nào cũng không được tiết lộ là công tác này đã thất bại.

Laird và Hen-kin đều nghĩ rằng việc này không phải là chuyện dễ dàng. Trong một cuộc lễ công khai với sự có mặt của nhiều người như vậy thì không biết cuộc tập kích có thể được giữ bí mật trong một thời gian dài hay không? Hoặc họ có cách nào che đậy được những phần quan trọng? Từ đây cho đến lúc Nhà Trắng trao gắn huân chương không biết là Lầu Năm Góc có nên tuyên bố những điều gì? Nên tuyên bố những chi tiết nào tối đa nhất? Nên tuyên bố những phần nào gọi là tối thiểu nhất? Mặc dù Laird không nói rõ ra những ý của ông ta muốn hỏi mọi người xem thử làm cách nào để nói cho báo chí biết là Lầu Năm Góc đã ra lệnh cho 56 người đổ bộ ngay xuống vùng Bắc Việt Nam để rốt cuộc chỉ tìm thấy được một trại tù trống rỗng?

Simons nhớ lại đấy là một buổi họp lạ lùng. Mọi người đang ngồi ở vị trí thuộc Trung tâm quyền lực quân sự tối cao của Hoa Kỳ mà lại phải lo âu quá đáng về một vài lời tuyên bố với báo chí. Vừa phải suy nghĩ vừa phải lật qua lật lại những miếng trứng rán và thịt mặn trong bữa điểm tâm.

Cuối cùng, Laird hỏi Simons xem ông ta thấy cần làm như thế nào? Đến lúc này thì Simons cũng có ý định muốn đề nghị với Laird một vài điều phải làm, cho dù ông ta có được hỏi ý kiến hay không. Ông ta nói với Laird nên tổ chức buổi họp báo “ngay bây giờ”. Theo quan niệm của Simons thì mọi người nên chuẩn bị sẵn sàng đón đỡ những cú đấm về câu chuyện tập kích này theo kiểu viết riêng biệt của báo chí hoặc theo đúng như lời tuyên bố của Lầu Năm Góc. Ông ta nói thêm: “Đây là một công tác hoàn toàn hợp lý, đúng theo luật định. Tù binh là người Mỹ. Vậy thì người Mỹ, theo truyền thống phải cố gắng làm một việc gì để cứu người Mỹ. Vậy thì chúng ta còn phải sợ gì nữa?”.

Simons không nhớ rõ là những người khác trong buổi họp có đồng ý với ông ta hay không, nhưng Bộ trưởng Laird đã đồng ý, như vậy là đủ rồi. Ông ta nói: “Tôi không cần biết những người khác có đồng ý với tôi hay không, việc đó chẳng cần”. Ông ta cũng không nhớ rõ là Laird đã đồng tình như thế nào, tuy nhiên cuộc họp báo được tổ chức năm phút ngay sau đó.

Cuộc tập kích Sơn Tây đã được soạn thảo và thi hành với sự bí mật tuyệt đối. Bây giờ lại đến màn cuối cùng phải tiết lộ ra một cách công khai trước dư luận quần chúng. Cả năm người có mặt tại buổi họp với Laird đang cố gắng chú tâm tìm cách nào để trình bày cuộc tập kích này cho thích hợp nhất. Không có cuộc thảo luận nào về chuyện thành hay bại, chuyện sai hay đúng. Sau này khi được hỏi ông ta có nói cho Laird biết là mình đã đổ bộ nhầm doanh trại hay không thì Simons trả lời: “Không, không”. Đấy không phải là vấn đề được đem ra thảo luận trong buổi họp, vì đấy là chi tiết chiến thuật. Tuy nhiên Manor và Simons đều có cảm tưởng là Laird và Moorer đã biết về sự sai lầm. Manor đã trình bày rõ việc này trong báo cáo sơ bộ sau công tác gửi về Trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc ngay trước khi ông ta và Simons rời căn cứ Udorn. Có điều là họ không biết chuyện bức công điện đã bị thất lạc. Oa-sinh-tơn chỉ nhận được một tuần lễ sau ngày tập kích chấm dứt - và chính nhà báo Giắc An-de-sơn đã tóm được một phần bức công điện ấy trước khi đến tay Laird.

Khi cuộc thảo luận về buổi họp báo Sơn Tây tiến đến phần kết luận phải trình bày các chi tiết như thế nào, thì không có đủ thời gian để tổ chức họp báo theo thời điểm thông lệ hàng ngày. Vì lẽ đó Hen-kin đã chỉ thị hoãn lại vào buổi chiều chứ không phải vào 11 giờ buổi sáng. Không ai nói rõ cho đám nhà báo gồm 55 ký giả và nhà bình luận phát thanh truyền hình biết rõ tại sao phải hoãn lại như vậy.

Đến lúc 3 giờ rưỡi chiều, Laird bước vào phòng họp báo Lầu Năm Góc, có cả Moorer, Manor và Simons đi cùng. Khi ông ta bước lên bục thuyết trình và sửa lại máy ghi âm thì các ngọn đèn rọi sáng chiếu thẳng vào bốn người để quay phim. Tất cả các nhà báo có mặt đang nóng lòng chờ đợi một việc gì xảy ra, ai cũng biết là sẽ có một câu chuyện gì nghiêm trọng sắp được tiết lộ. Laird lấy giọng và nói với báo chí, ông ta muốn cho họ biết chi tiết về một chiến dịch đã xảy ra trong cuối tuần qua tại vĩ tuyến 17 ở Bắc Việt Nam.

Các cuốn sổ tay được mở ra, bút chì ghi lia lịa. Báo chí đều biết rõ là từ hơn hai năm qua Bắc Việt Nam đã không bị thả bom. Nhưng câu chuyện này rõ ràng là một chuyện quan trọng hơn nhiều; vì lẽ trong ánh đèn rọi trước mặt họ, ngoài một vị tướng không quân còn có thêm một quân nhân ngực gắn đầy huy chương trông không có dáng dấp gì là một sĩ quan tham mưu cả.

Laird tuyên bố là Bắc Việt Nam đã cứng rắn từ chối việc trao đổi tù binh và đã không tuân theo hiệp ước Giơ-ne-vơ. Ông ta nói là trong vài tháng qua ông đã soạn thảo một kế hoạch hỗn hợp để giải cứu càng nhiều tù binh càng tốt. Đến đây thì bút chì và bút máy bay lướt qua các sổ tay của nhà báo. Laird nói tiếp đây là một toán hành động đặc biệt phối hợp giữa lục quân và không quân đã được tập hợp để thực hiện công tác giải cứu này. Các cuộc thực tập đã được làm rất tỉ mỉ, căng thẳng, đôi khi suốt ngày đêm. Một yếu tố quan trọng nhất đã làm cho ông ta quyết định phải cho xuất phát công tác tìm kiếm và giải cứu này là vì trong tháng qua nhiều tin tức mới nhận được cho biết “có vài tù binh của chúng ta” đang chết dần trong các trại tù ở Bắc Việt Nam. Đèn bấm máy ảnh nổ lốp bốp.

Laird tuyên bố một cuộc tập kích đã được thực hiện tại một trại tù cách hướng Tây Hà Nội khoảng 20 dặm, lúc hai giờ sáng giờ Hà Nội, vào cuối tuần qua. Các chuyên viên truyền hình đều kiểm soát lại máy ghi âm để biết chắc là đã thu âm đầy đủ không sót một lời nào, còn các chuyên viên chụp ảnh và quay phim chen lấn nhau để đến được gần bục thuyết trình.

Laird nói rằng hai vị sĩ quan xuất sắc đứng cạnh ông ta là Manor và Simons đã chỉ huy cuộc tập kích này. Thiếu tướng không quân Manor làm Tổng chỉ huy còn đại tá Simons chỉ huy toán xung kích và giải cứu tù binh. Laird nói rõ thêm Simons và lính của ông ta đã đổ bộ xâm nhập, và lục soát toàn bộ doanh trại. Laird thuyết trình khoảng hơn 3 phút trước khi ông ta thú nhận: “Lấy làm tiếc là toán giải cứu tù binh đã tìm thấy trại tù bị bỏ trống. Không còn tù binh nào bị giam giữ ở đấy nữa”.

Tất cả nhà báo có mặt đều thì thầm với nhau với vẻ kinh ngạc. Laird tiếp tục trình bày thêm một vài chi tiết tổng quát nữa về cuộc tập kích trước khi chuyển sang phần giải đáp thắc mắc trong cuộc họp báo. Báo chí đã sẵn sàng, mọi người đều muốn biết thêm về các tin tức liên quan đến việc thực hiện tập kích - nhất là lý do tại sao lại cho đi tập kích một doanh trại trống - họ muốn biết nhiều hơn những điều mà Lầu Năm Góc đã tuyên bố.

“Đây có phải là lần đầu tiên lực lượng Mỹ được sử dụng ngay trên đất Bắc Việt Nam không?”. Laird trả lời: “Chúng ta thường xuyên cho thực hiện những công tác tìm kiếm và giải cứu tại Bắc Việt Nam”. “Có bao nhiêu người tham dự cuộc tập kích này?” Simons trả lời: “Tôi không thể nói rõ được”. Simons được yêu cầu kể lại đầu đuôi câu chuyện, những việc gì đã xảy ra, Simons nói: “Không, tôi không thể nói được”. “Công tác này có mang một tên giả nào không?”. “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. “Có phải Đại tá xuất phát từ một tàu sân bay không?”. “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. “Đại tá đã sử dụng trực thăng loại gì?”. “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. “Đại tá hy vọng giải cứu được bao nhiêu người?”. “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. “Ngoài vị trí trại tù đó đại tá có ý định tập kích một vị trí mục tiêu nào khác nữa không?”. Manor trả lời: “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. Ông ta có ý định muốn tiết lộ việc một số người đã đổ bộ nhầm mục tiêu. “Quý vị có bắt được tù binh nào không?”. “Tôi không thể trả lời câu hỏi đó”. “Quý vị có sử dụng vũ khí không?”. “Có. Chúng tôi có bắn súng”. “Quý vị có bắn chết ai không?”. Simons trả lời: “Có, tôi nghĩ là có”.

Một câu hỏi đã làm cho Simons ngập ngừng, lúng túng: “Đại tá có đổ bộ đúng trại tù không?”. Câu hỏi này cũng gần giống như ý muốn hỏi: “Đại tá có nhảy xuống ngay đúng vào trại tù không?”. Simons do dự, rồi trả lời: “Có”.

Laird đã cố gắng trả lời 10 trong số 35 câu hỏi của báo chí. Vị Bộ trưởng Quốc phòng với lời nói dịu dàng đã làm nổi bật sự mâu thuẫn với cách thức trả lời ngắn gọn, nhát gừng của Simons, đôi khi không tìm ra được đúng chữ để xoay quanh vấn đề. Vì lý do an ninh, Manor và Simons chỉ có thể trả lời “Tôi không thể trả lời được” hoặc “tôi không thể nói rõ cho các ông biết điều đó”. Cả hai người đã trả lời như vậy đối với khoảng 40% số câu hỏi được đặt ra.

Laird đã giúp cho Manor và Simons thoát ra nhiều câu hỏi hóc búa của báo chí, nhưng chính một vài câu trả lời của Laird sau này đã gây ra nhiều chuyện rắc rối về sự xác thực. Ông ta đã nói với báo chí là không có cuộc oanh tạc nào xảy ra trong thời gian tập kích. Nhưng bốn ngày sau thì chính Tổng thống Nixon lại nói với quan khách tại Nhà Trắng là một cuộc oanh kích bằng không lực đã được thực hiện tại một cơ sở quân sự gần Sơn Tây để chặn đứng lực lượng Bắc Việt Nam trước khi các trực thăng đổ bộ. Phát ngôn viên Dan Hen-kin đã cố gắng giải thích sự sơ xuất này vào ngày hôm sau.

Laird cũng bị báo chí phỏng vấn là cuộc tập kích này có phải là công tác tìm kiếm và giải thoát đầu tiên được thực hiện trong khi không có chiếc máy bay nào bị bắn rơi phải không? Laird không muốn trình bày tất cả tài liệu liên quan để nói cho báo chí biết là từ trước đến nay đã có hơn 60 cuộc tập kích giải cứu tù binh tại miền Nam Việt Nam và tại Campuchia với kết quả chỉ giải thoát được một tù binh Mỹ duy nhất, tù binh này đã chết sau đó hai tuần lễ. Ông ta chỉ nói với báo chí đại khái là: “Đây là công tác tìm kiếm và giải cứu đầu tiên được thực hiện tại miền Bắc Việt Nam với mục đích giải thoát tù binh Mỹ trong cuộc chiến này”.

Đến 4 giờ 12 phút, Laird cắt ngang mọi câu hỏi và tuyên bố: “Xin cảm ơn quý vị”. Tất cả nhà báo chạy ùa ra khỏi phòng họp để viết vội các bài đăng tải trên báo chí. Tin tức tràn ngập hệ thống thông tin trong suốt hàng mấy tuần lễ. Nhưng thật ra, họ đã biết rõ việc gì về cuộc tập kích ấy hay chưa? Họ chỉ được trình bày những nét đại cương của một tấn bi hài kịch, không có đầy đủ chi tiết. Họ chỉ biết sơ qua về một cuộc tập kích được thực hiện ngay trong lòng đất Bắc Việt Nam để giải cứu tù binh Mỹ mà thôi. Có thể cuộc tập kích đã thành công vì không có quân nhân Mỹ nào bị thương vong cả. Nhưng trại tù Sơn Tây đã bị bỏ trống từ lâu rồi. Đối với báo chí việc trục trặc này đã quá rõ ràng. Đây là một sự thất bại về tình báo. Nhưng khi được hỏi đối với sự thất bại về tình báo này nên quy trách nhiệm về ai thì Simons trả lời: “Tôi không thể trả lời được câu hỏi đó vì lẽ tôi không hiểu được ý quý vị muốn nói thất bại tình báo nghĩa là gì”.

Lầu Năm Góc đã trình bày sự kiện theo ý họ muốn nhưng đối với các nhà báo có mặt trong buổi họp thì mọi người đều biết rõ là họ đã không được trình bày hoàn toàn đúng sự thật. Ngay tối hôm đó, sự kiện về cuộc họp báo này đã tràn ngập phần tin tức. Trên trang nhất của hầu hết báo chí xuất bản ngày hôm sau đều phản ánh kết luận mà nhà báo đã có thể rút ra được trong buổi họp báo, đó là: “Cuộc tập kích Sơn Tây là một thất bại”. Tổng thống Nixon một lần nữa lại bị chỉ trích vì đã cho thi hành một chính sách phiêu lưu mới. Phái đoàn Bắc Việt Nam đã bãi bỏ cuộc họp sắp tới tại hòa đàm Pa-ri để phản kháng. Tại Quốc hội, phản ứng không thuận lợi chút nào. Thượng nghị sĩ William Fulbright, chủ tịch uỷ ban ngoại giao Thượng viện đã coi cuộc tập kích là “một cuộc leo thang chiến tranh quan trọng… Một hành động khiêu khích đại bại với mục đích xâm lăng…”. Uỷ ban của Phun bơ-rai đã đồng ý với đa số tuyệt đối về một cuộc triệu tập nghe trình bày những sự rắc rối chính trị có thể xảy ra do cuộc tập kích gây nên.

Cuộc “vật lộn” mà Simons đã tiên đoán trước đó đang sắp được xảy ra một cách gay gắt và dữ dội.



phithiengia
20-04-2008, 10:25
Tại nghị trường

24 giờ sau khi Laird tuyên bố tấn thảm kịch với báo chí tại Lầu Năm Góc thì cả hai viện Quốc hội xảy ra những cuộc tranh cãi gay gắt về chuyện tập kích. Nghị sĩ Hen-ry Giắc-sơn nói: “Công tác giải cứu này được hoàn toàn bảo đảm”. Nghị sĩ Et-uốc Ken-nơ-đi nói: “Về phần các quân nhân tham dự tập kích thì tôi ngưỡng mộ mọi sự dũng cảm của họ. Tuy nhiên tôi chỉ muốn chê trách bộ phận tham mưu đã cho phép họ đi”. Nghị sĩ Đích Bay-hơ tuyên bố với báo chí là ông ta lo ngại những cuộc tập kích như vậy sẽ đem lại kết quả tù binh Mỹ sẽ bị xử tử hết. Ông ta gọi cuộc tập kích này là một cuốn phim cao bồi kiểu Giôn Oay-ne. Nghị sĩ Rô-bớt Do-le đưa ra bản kiến nghị tuyên dương công trạng những người đã dám liều mạng để thực hiện công tác đã bị thất bại này. Ông ta nói cuộc tập kích nay đã thành công trong việc “nêu lên ý nghĩa về sự quan tâm của chính phủ Hoa Kỳ đối với tù binh. Nhiều người trong số tù binh này đang bị chết dần mòn trong các trại giam từ hơn 5 năm qua”. Nghị sĩ Ken-nơ-đi phản ứng ngay lại: “Và cho đến bây giờ họ vẫn còn bị giam ở đấy”.

Tại Quốc hội, sự xúc động của các vị đại biểu vừa tỏ ra gay gắt nhưng cũng vừa bị chi phối. Dân biểu Cha-rơ-léc Va-ních nói: “Thật là không thể tưởng tượng nổi tại sao cơ quan tình báo quân sự lại đem thí mạng những quân nhân dũng cảm vào việc tập kích một trại tù đã bị bỏ trống hàng bao nhiêu tuần lễ qua. Hành động này càng làm nguy hại thêm cho cuộc sống của các tù binh đang bị giam tại Bắc Việt Nam”. Vị dân biểu Rô-bớc Le-gét nói: “Cuộc tập kích này có lẽ đã do quân đội Sài Gòn thiết lập kế hoạch hoặc có lẽ đã do một tên viết kịch bản phim chiến tranh loại “C” nào đó thảo ra”. Ông ta còn phản ứng tiếp: “Đấy là một sự thất bại ngoại hạng, và điều đã giúp cho nó không bị thất bại nặng nề hơn nữa là nhờ không còn tù binh nào ở trong trại nữa. Nếu còn tù binh ở đấy thì chắc chắn là toàn thể toán tập kích đã bị lực lượng Bắc Việt Nam bắn chết hết”. Ngoài ra ông ta còn tiên đoán rằng: “hành động này đã làm giảm gốc rễ niềm hy vọng của chúng ta đối với việc thương lượng về vấn đề đối xử với tù binh tử tế hơn”.

Vào xế chiều ngày hôm ấy Bộ trưởng Quốc phòng Laird ra trình bày trước Uỷ ban ngoại giao của Thượng viện, trong một bầu không khí vô cùng gay gắt. Việc trình bày này được thực hiện công khai, do Quốc hội triệu tập dưới chiêu bài yêu cầu Bộ Quốc phòng chứng minh việc xin thêm viện trợ 255 triệu đô-la cho Cam-pu-chia. Nhưng trong suốt buổi họp tại nghị trường không thấy có một câu nói nào được nêu ra về viện trợ ngân quỹ cho Cam-pu-chia.

Vào buổi trưa trước cuộc họp Laird đã thông báo cho uỷ ban là ông ta có thể đến Quốc hội vào xế chiều. Bốn giờ năm phút chiều, Laird bắt đầu trình bày nội dung, đây là thời gian mà tất cả văn phòng Quốc hội thường đóng cửa cho mọi người ra về sớm để tránh tắc xe trên đường phố Oa-sinh-tơn vào giờ tan tầm. Mặc dù buổi họp đã được triệu tập vào phút chót nhưng cũng đã có 10 trong số 15 nghị sĩ thuộc uỷ ban đến họp. Chủ tịch uỷ ban là thượng nghị sĩ Fullbright đã đồng ý để cho Bộ trưởng Quốc phòng nói liên tục trong 15 phút.

Laird chỉ nói mất khoảng 1/3 thời gian đó mà thôi. Ông ta trình bày thêm một vài điểm mới ngoài những sự kiện đã cho báo chí biết về cuộc tập kích Sơn Tây. Tuy nhiên ông ta cũng không trình bày thêm được gì nhiều, vì lẽ ông ta chưa nhận được bản báo cáo sơ lược sau cuộc tập kích do Manor gửi về bằng công điện từ Thái Lan. Sau này ông ta có nói là “hàng mấy ngày sau tôi mới nhận được báo cáo ấy. Cho nên lúc bấy giờ tôi đứng trước uỷ ban với hai bàn tay trắng”. Nhưng sau 22 tháng làm Bộ trưởng Quốc phòng, Laird nghĩ rằng ông ta sẽ không bao giờ biết được đầy đủ câu chuyện qua báo cáo. Ông ta giải thích: “Tôi đã học được một điều, đấy là đừng nên mong đợi sự thật nơi báo cáo thứ nhất, cũng đừng mong đợi ở báo cáo thứ hai, và luôn cả báo cáo thứ 3 cũng đừng nên chấp nhận ngay, có thể với bản báo cáo thứ tư chúng ta mới hy vọng có được tin tức đầy đủ và chính xác”. Ông ta đã trình bày với uỷ ban rằng qua nhiều nguồn tin không chính thức đã có thêm nhiều tù binh Mỹ, ngoài số 6 người được báo cáo vào đầu tháng này, đã bị chết trong các trại giam ở Bắc Việt Nam. Ông ta có nói thêm là đại tá Simons tốt nghiệp khoa báo chí đại học tại Mít-su-ri. Laird cũng là một nghị sĩ trước đây cho nên ông ta rất khôn khéo trong việc giải tỏa các lời chỉ trích của những nhà lập pháp. Một trong những nghị sĩ to tiếng nhất của uỷ ban ngoại giao Thượng viện là S.Si-ming-tơn, đại diện cho tiểu bang Mit-so-no-ri.

Laird chấm dứt lời trình bày trước uỷ ban về vấn đề Sơn Tây như sau: “Từ khi tôi làm Bộ trưởng Quốc phòng đến nay chưa bao giờ tôi phải đương đầu với một quyết định đầy thách thức như vậy”. Và ông ta nói thêm: “Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nếu có tù binh tại Sơn Tây lúc bấy giờ thì ngày hôm nay họ đã trở thành những người tự do”. Phần cuối cùng ông ta bày tỏ sự kính trọng và mang ơn những quân nhân lục quân và không quân đã thi hành nhiệm vụ một cách anh hùng.

Trong suốt 3 giờ tiếp theo, Fullbright và những nghị sĩ khác trong ủy ban đã chất vấn Laird một cách dữ dội. Tham mưu trưởng hỗn hợp John W. Vogt (chứ không phải Moorer) ngồi bên cạnh Laird, nhưng chính Laird trả lời mọi câu hỏi. Ông ta biết buổi trình bày này sẽ là một mặt trận không mang về thắng lợi cho nên đã quyết định tự nhận lấy hết mọi sự “nóng bỏng” - vì lẽ đó Vogt không cần phải nói một lời gì.

Phần chính của vấn đề mà Fullbright chú tâm đến trong buổi trình bày này là không cần bàn đến chuyện đây là một cuộc tiến công dũng cảm hoặc gan dạ, nhưng vấn đề đặt ra là đấy có phải là một cuộc tiến công khôn ngoan không? Ông ta nhấn mạnh thêm: “Lẽ tất nhiên không còn ai thắc mắc điều gì về sự dũng cảm và anh hùng của những người đã thực hiện cuộc tiến công ấy. Họ đã thi hành nhiệm vụ hoàn hảo”. Nhưng khi ông ta nói tiếp theo “còn kẻ nào đã cho lệnh thi hành thì lại không làm hoàn hảo nhiệm vụ chút nào cả”. Cả hội trường cười to. Fullbright thẳng thừng nói tiếp: “Có điều gì đó không ổn về tình báo”.

Laird trả lời: “Thưa ông chủ tịch đấy không phải là một thất bại”.

Fullbright tiếp: “Như vậy thì trong trường hợp này có điều gì không ổn về kế hoạch”.

Laird nhấn mạnh: “Tất cả những người thi hành công tác này đều đã biết trước việc có thể sẽ không có tù binh nào trong trại tù ấy”.

Khi Laird nói đến những người thi hành công tác ý là muốn đề cập đến các tù binh, nhưng thật ra Manor và Simons chẳng hề biết được điều đó. Sau này, khi được hỏi là ông ta có được biết trước khi xuất phát tập kích thì tất cả tù binh đã bị di chuyển đi nơi khác hay không, Simons trả lời quyết liệt: “Tuyệt nhiên không”. Được hỏi ông ta có biết trước là tù binh đã bị di chuyển nhưng doanh trại có dấu hiệu sinh hoạt trở lại hay không? Thì Simons cũng trả lời: “Tôi không nhớ là có ai nói với tôi việc đó”. Được hỏi: “Trước khi rời Udorn có ai nói cho ông biết là trại tù có thể bị bỏ trống hay không?” thì Simons trả lời dứt khoát: “Chẳng có ma nào nói với tôi điều đó cả”. Tuy nhiên ông ta có nói thêm: “Tôi tự nghĩ đến việc đó. Tôi cho là có thể như thế”. Nhưng sau này Simons lại nói: Lần đầu tiên ông ta nghe nói đến việc tù binh bị di chuyển đi nơi khác vào tháng bảy là lúc ông ta nói chuyện với các tù binh đã được thả về nước năm 1973, những tù binh mà Simons đã cố gắng giải cứu trước đây.

Laird tiếp tục cố gắng chống trả những lời tấn công của Fullbright về sự thất bại tình báo. Ông ta nói: “Tôi mong được trình bày với ông chủ tịch là chúng ta đã tiến bộ ghê gớm về phương tiện tình báo”. Cả hội trường lại cùng cười ầm lên. Lời nói tiếp theo của Laird bị ngắt quãng nhưng sau đó ông ta lại nói một điểm mà chính điểm này đã được báo chí nhắc nhở đến nhiều lần khi đề cập đến toàn bộ công tác tập kích. Điểm đó là: chúng ta chưa có thể phát minh được một máy chụp ảnh chụp xuyên qua nóc nhà. Ông ta nói tiếp nếu không kể điều đó thì các nguồn tin tình báo dành cho công tác này rất có hiệu lực. Laird cố gắng trình bày cho uỷ ban thấy rõ những điều gì đã được biết trước về mục tiêu trại tù cũng như về lực lượng phòng không Bắc Việt Nam, nhưng những lời trình bày của ông thường bị Fullbright cắt ngang với câu hỏi: “Tôi không tin được điều ấy vì thực tế là không có tù binh nào ở đấy. Vậy thì tình báo hữu hiệu ở chỗ nào?”

Sau đó uỷ ban bắt đầu xoay quanh điểm thắc mắc mà mọi người đều quan tâm: công tác này được lệnh thi hành khi nào? Và tại sao lại được lệnh cho thi hành khi biết không có tù binh ở Sơn Tây? Laird cố tránh né câu hỏi đó.

Ông ta chứng minh là đã đề nghị lên Tổng thống Nixon cho xuất phát (trong những câu tiếp theo ông ta đổi tại là thi hành công tác) vào sáng ngày thứ sáu. Ông ta không đi sâu vào chi tiết, cũng không tiết lộ việc gửi công điện hỏa tốc cho Manor vào 5 giờ 20 chiều ngày thứ tư để ra lệnh thi hành công tác. Ông ta có đề cập đến một điểm là đã hội ý với Tổng thống một lần nữa trước khi cho lệnh xuất phát vào thứ sáu.

Laird bị chất vấn dữ dội khi ông ta tuyên bố đã có thêm nhiều tù binh nữa bị chết ngoài số 6 người đã được báo cáo trong tháng này. Một nghị sĩ muốn biết Laird đã nhận được những báo cáo ấy vào lúc nào. Laird cố tình tránh né không muốn để cho mình bị quật ngã nên trả lời: “Đúng ra thì những báo cáo ấy đã nhận được vào đầu tháng này. Cho đến nay chúng tôi có nhận thêm nhiều báo cáo khác nữa nhất là trong tuần lễ vừa qua, những báo cáo này do đường dây của chúng tôi từ Hà Nội gửi về”. Được hỏi là lời đề nghị của ông ta cho thi hành cuộc tập kích đã xảy ra sau hay là trước khi nhận được những báo cáo về số tù binh chết này. Laird trả lời rất rõ ràng: “Sau khi nhận được những báo cáo này”.

Không có người nào hỏi tại sao ông ta lại biết được tin vào ngày thứ sáu 20 tháng 11 trong khi Cora Weiss chuyển giao danh sách tù binh Mỹ chết cho Bộ Ngoại giao vào ngày thứ ba 23 tháng 11. Lời trình bày của Laird đã làm cho giới tình báo gần như hoảng sợ vì lẽ hệ thống gam-ma là một trong những nguồn thu lượm tin tức tình báo đáng giá về tù binh Mỹ, nhưng chính hệ thống này là bất hợp pháp. Hơn nữa các nhà hoạt động hoà bình cỡ Cora Weiss không phải là những người duy nhất bị theo dõi. Đây là một hệ thống có tầm hoạt động đại quy mô, và một trong những mục tiêu được theo dõi là chính thượng nghị sĩ Fullbright. Suýt nữa Laird đã làm nguy hại đến một trong những bí mật quốc gia được bảo vệ kỹ lưỡng nhất trước một buổi trình bày công khai. Nhưng trong khi đó thì không có một nghị sĩ nào trong uỷ ban hoặc một nhân viên văn phòng Quốc hội nào tóm được ý nghĩa trong câu tuyên bố của Laird. Và trong nhiều tuần lễ sau chỉ có một nhà báo tại Oa-sinh-tơn theo đuổi điều tra về việc này.

Laird còn gặp rắc rối với nhiều câu hỏi khác vào buổi chiều hôm ấy. Một lần nữa, để bảo vệ cho hiệu lực của ngành tình báo tại Lầu Năm Góc, ông ta đã nói với uỷ ban: “Mọi việc đã xảy ra đúng như điều các toán xung kích đã cho biết trước… Từng mẩu tin tình báo được sử dụng đều chứng tỏ chính xác”. Lẽ dĩ nhiên ông ta chưa được biết việc mà các chuyên viên tình báo đã gọi một cơ sở gần mục tiêu là “trường trung học”, nhưng thật ra trên thực tế đấy là một cơ sở quân sự chứa đầy lực lượng thù địch.

Nghị sĩ Phơ-răng-chơt, người mà 5 năm về sau giữ chức chủ tịch Uỷ ban đặc biệt của Thượng viện chuyên lo điều tra hoạt động tình báo Hoa Kỳ, đã hỏi Laird một câu có tính sâu sắc nhất trong buổi điều trần: “Có bằng chứng gì cho biết, tù binh đã được di chuyển đi nơi khác trước cuộc tập kích hoặc trước đó một hay hai ngày không?”.

Laird chân thật trả lời: “Không, không có bằng chứng nào cả”. Lẽ tất nhiên đã có bằng chứng cho biết tù binh bị chuyển đi nơi khác hàng tháng trước cuộc tập kích. Nếu câu hỏi của Phơ-răng-chớt được thay đổi chút ít như thế này: “Trước cuộc tập kích một hoặc hai ngày có nhận được bằng chứng nào cho biết tù binh đã bị di chuyển đi nơi khác không?” thì Laird sẽ trả lời: “Có” hoặc sẽ tránh né nếu không muốn tiết lộ bí mật của hệ thống Gam-ma. Nhưng không ai hỏi câu đó cả.

Nghị sĩ An-be Gốc đã hỏi Laird một câu hỏi đầy ác ý: “Quyết định cho xuất phát công tác này có được hoãn lại lần nào không? Trước thời điểm cuối cùng?”. Lần này thì Le đơ trả lời không được rõ ràng lắm: “Không. Quyết định không bị hoãn lại lần nào cả. Nói đúng ra là trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch không có điều gì bị đình hoãn lại”.

Uỷ ban lại xoay trọng tâm vào một vấn đề khác. Laird bị chất vấn rầy rà và dài dòng về thời gian hoạt động của các cuộc oanh kích trên vùng trời phía nam vĩ tuyến 19 chỉ một vài giờ sau cuộc tập kích Sơn Tây. Bộ Quốc phòng có chỉ thị cho thả bom đại quy mô miền Bắc Việt Nam không? Laird trả lời: “Không, các cuộc oanh kích được xuất phát chỉ với mục đích trả thù về việc một chiếc trinh sát RF-4 không vũ trang đã bị bắn rơi 10 ngày trước đó - ngày 13 tháng 11. Cả hai phi công đều bị thất lạc mất tích, không có dấu hiệu nào về việc họ đã nhảy dù ra”.

Tuy nhiên, Laird đã không nói đến việc các cuộc oanh kích này - một trong những cuộc oanh kích mạnh mẽ nhất trong suốt cuộc chiến - đã được hoạch định gần một tháng trước khi chiếc máy bay trinh sát bị bắn rơi. Chính Moorer đã hỏi ý kiến Blackburn về những hậu quả có thể xẩy ra đối với các cuộc oanh kích ấy vào đầu tháng 11.

Một lần nữa, Laird với 17 năm làm đại biểu quốc hội trước khi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng đã tỏ ra không chân thật mấy đối với một ngành trong hành pháp mà ông ta đang phục vụ rất đắc lực. Uỷ ban tỏ ra nghi ngờ về lời giải thích của ông ta đối với các cuộc oanh kích này, và báo chí, ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, đã đồng thanh cho rằng lời trình bày của Laird là cách giải thích tồi tệ nhất. Nhiều chủ nhiệm báo chí và nhà bình luận truyền hình đã quên đi khía cạnh nhân đạo trong cuộc tập kích Sơn Tây để chỉ lo chỉ trích về việc thả bom đại quy mô miền Bắc Việt Nam.

Sự lo sợ của Blackburn và Mayer đã xảy ra. Nhiều tuần lễ trước khi các cuộc oanh kích được thi hành, cả hai người đã nêu ý kiến là sẽ có những sự va chạm ngoại giao tai hại. Họ đã viết ra giấy những ý kiến này để báo động trước với nhiều lý lẽ rõ ràng. Chữ “giải cứu” và chữ “trả thù” là hai danh từ nằm ở hai trang khác nhau trong cuốn tự điển Webster và đối với dư luận quần chúng thì lại là hai sự việc xảy ra cách nhau đến hai năm… Cả hai người còn nêu thêm ý kiến nghiêm trọng cho rằng các cuộc oanh kích trả thù này sẽ khiêu khích kẻ địch có nhiều hành động giáng trả lại đối với tù binh còn đang bị giam giữ, trong khi đó thì cuộc tập kích có thể ít gây ra tai hại hơn.

Blackburn và Mayer được biết là Kissinger đã đồng ý cho ngừng thả bom. Nhưng khi đến giai đoạn cuối cùng xảy ra trước cuộc tập kích Sơn Tây 24 giờ với nhiều ý kiến cho rằng cuộc tập kích này có thể được thực hiện cùng với các công tác khác mà họ không biết rõ là gì. Cả hai công tác đều được xuất phát hầu như không cùng một lúc - 105 chiếc máy bay hộ tống toán xung kích giải cứu tù binh gần Hà Nội đã được thực hiện đồng thời với 225 chiếc máy bay khác oanh kích khu vực hướng Nam của Bắc Việt Nam để trả thù cho một máy bay trinh sát RF-4 bị bắn rơi 10 ngày trước đó. Việc hoạch định thời điểm xuất phát các cuộc oanh kích vào ngày thứ bảy 21 tháng 11, chỉ một vài giờ sau khi cuộc tập kích thất bại, vẫn còn ám ảnh cả Blackburn lẫn Mayer hàng mấy tháng liền. Khắp nơi trên thế giới, báo chí đã ca tụng việc cố gắng giải cứu tù binh trên một hàng tin thì ngay sau đó với hàng tin khác lại chê bai việc cho ném bom trở lại. Tất cả mục đích của công tác Sơn Tây đã bị lu mờ đi.

Trong khi đã tránh né được việc uỷ ban ngoại giao chất vấn về các cuộc oanh kích trả thù và công tác giải cứu Sơn Tây thì Laird lại vấp phải một sự kiện tai hại khác trong ngày hôm đó. Khi được nghị sĩ S.Sơ-ning-tơn hỏi về số thương vong và tổn thất vật chất trong hai công tác đó thì Laird đã trả lời: “Chúng ta không mất một chiếc máy bay nào trong cuộc oanh kích tại miền Nam vĩ tuyến 19 vào cuối tuần này và chúng ta chỉ có hai tổn thất trong công tác tù binh”. Câu trình bày này là đúng sự thật. Nhưng chỉ một vài ngày sau thì điều đó không còn giá trị nữa vì có tin tiết lộ cho báo chí biết một chiếc F.105 trong chuyến đi tập kích Sơn Tây đã bị bắn rơi và mất tích ở Lào. Một vài bài xã luận và báo chí có cảm nghĩ chính quyền còn che đậy việc gì bí mật đã xảy ra trong cuộc tập kích mà không muốn cho dân chúng biết.

Các nghị sĩ trong uỷ ban cũng có cảm nghĩ là Laird không minh bạch trong nhiều vấn đề khác. Một trong những người ủng hộ Laird đắc lực nhất là nghị sĩ Gia-cốp Gia-vít thuộc bang New York, ông ta tỏ ý không được hài lòng lắm về việc oanh kích trả thù, nhưng ông ta cho đấy là việc không dính líu gì đến cuộc tập kích Sơn Tây. Ông ta đã phát biểu một cách thân thiện nhất trong suốt buổi điều trần là: “Chiến tranh không phải là một tiệc trà đầy hương vị”. Nhưng khi Gia-vít hỏi Laird đấy có phải là công tác giải cứu tù binh đầu tiên đã được thực hiện hay không, thì Laird trả lời: “Đấy là công tác đầu tiên tại Đông Nam Á trong cuộc xung đột này. Tôi xin quí vị là tôi không có ý nhắc đến lịch sử của đất nước ta”.

Gia-vít vẫn còn nhớ mãi câu trả lời ấy, trong khi đó thì chỉ ba tuần lễ sau báo chí đăng tải bản tổng kết về ba hoặc bốn công tác mưu toan giải cứu tù binh khác nữa. Các công tác này được thực hiện tại miền Nam Việt Nam và Cam-pu-chia, và cũng gặp phải trại tù trống rỗng. Nhân viên trong văn phòng của Gia-vít tỏ ra bực tức về việc Laird đã không nói rõ những công tác này. Khi họ hỏi Lầu Năm Góc về các công tác giải cứu này thì họ lại càng bực tức thêm vì bất cứ nơi nào họ hỏi đến cũng đều có thái độ lạnh lùng như tảng băng. Tất cả những tin tức liên quan đến các việc này đã được giấu kín trong suốt thời gian dài 5 năm.

Sơn Tây không phải là công tác cố gắng giải cứu đầu tiên tại Đông Nam Á trong cuộc xung đột. Đúng ra đây là công tác thứ 71 đổ bộ vào trại tù trống. Tại miền Nam Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào, từ giữa năm 1966 đến năm 1970 đã có 91 công tác giải cứu được thi hành. Có khoảng 45 hoặc nói đúng hơn là gần 50 công tác này được thực hiện do các nguồn tin về tù binh Mỹ đã báo cáo cho biết sự kiện và địa điểm. 79 công tác này được coi như là những cuộc tập kích thật sự. Trong số 91 công tác này, 20 thành công - giải thoát được 318 binh sĩ miền Nam Việt Nam và 60 dân sự. Nhưng trong 45 cuộc tập kích thực hiện để giải cứu tù binh Mỹ thì chỉ có 1 thành công. Quân nhân L.D Ai-ken thuộc binh chủng lục quân được giải thoát vào ngày 10-7-1969 khỏi một trại tù của Việt cộng, và đã chết tại bệnh viện Mỹ 15 ngày sau đó. Cuộc tập kích này rõ ràng là đã bị thất bại vào phút chót.

Tất cả những công tác giải cứu thực hiện trước cuộc tập kích Sơn Tây đều do Trung tâm giải cứu nhân sự hỗn hợp (J.P.R.C) điều hành. Đây là một Trung tâm riêng biệt của Bộ Tư lệnh MACV ở Sài Gòn. Kết quả của những sự cố gắng thuộc Trung tâm này cũng không đem lại điều gì khả quan hơn cuộc tập kích Sơn Tây. Ví dụ vào tháng 12 năm 1966 có một nguồn tin mật báo cho biết có nhiều tù binh Mỹ đang bị Việt cộng giam giữ. Trung tâm J.P.R.C. kiểm nhận lại nguồn tin chính xác và cho xuất phát ngay một cuộc tập kích.

Một vài cuộc tập kích của Trung tâm J.P.R.C đã bị thất bại vì lý do tin tức tình báo còn nhiều sơ hở hoặc vì lý do các cuộc hành quân giải cứu không được xuất phát kịp thời. Việc này đã xảy ra đối với một cuộc tập kích vào năm 1967, khi một quân nhân Nam Việt Nam trốn thoát khỏi một trại tù của Việt cộng đã cho biết tin về địa điểm của hai trại tù khác có giam giữ quân nhân Mỹ. Nguồn tin này trước tiên được thử thách về cơ sở chính xác nhưng sau cùng đã được kiểm nhận có thể tin cậy được. Cuộc tập kích được xuất phát ngay tại một căn trại có 21 tù binh Nam Việt Nam đã được giải thoát. Còn doanh trại kia thì trống rỗng. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ là tù binh Mỹ đã từng bị giam ở đấy. Các tù binh Nam Việt Nam sau khi được giải cứu đã cho biết các tù binh Mỹ đã bị di chuyển đi nơi khác trước 20 ngày khi có cuộc tập kích.

Sau cuộc giải cứu Ai-ken vào năm 1969 thì nhiều cố gắng tìm kiếm địa điểm trại tù binh và giải cứu tù binh tại Nam Việt Nam và Cam-pu-chia đã được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ trong năm 1970 đã có tới 24 cuộc hành quân giải cứu tù binh tại miền Nam Việt Nam. Nhưng tất cả đều thất bại, không tìm thấy một tù binh Mỹ nào cả. Các cuộc hành quân giải cứu này vẫn được tiếp tục ngay sau thời gian cuộc tập kích Sơn Tây bị thất bại. Tính đến năm 1973 đã có tất cả 119 công tác giải cứu tù binh trong đó có 98 cuộc tập kích. Ai-ken vẫn là người Mỹ duy nhất được giải thoát trong suốt những năm ấy.

Nhìn chung trên toàn diện sự việc thì cuộc tập kích Sơn Tây không phải là một sự thất bại ngoạn mục nhất, hoặc không phải là sự thất bại duy nhất từ xưa đến nay như các nghị sĩ ác ý đã cố tình chất vấn Laird trên phương diện đó. Khi cố tình che giấu những công tác giải cứu tù binh khác đã thực hiện, Laird đã để mất một cơ hội tốt nhằm đem việc thất bại Sơn Tây ra so sánh trên bình diện chung. Có lẽ ông ta đã không biết rõ quá trình hoạt động của những cuộc hành quân giải cứu ấy. Chỉ có Mayer biết rõ nhưng Blackburn có chỉ thị cho ông ta đừng bao giờ đề cập đến việc này. Nếu như Quốc hội và nhân dân Hoa Kỳ được cung cấp đầy đủ tin tức liên hệ thì có thể họ sẽ hiểu rõ ràng hơn về những động cơ thúc đẩy việc xuất phát cuộc tập kích Sơn Tây và cả sự may mắn thành công cho dù là mong manh.

Laird đã tỏ ra không trung thực đối với Quốc hội hoặc đối với nhân dân Hoa Kỳ. Có lẽ vì lý do Lầu Năm Góc không muốn công nhận sự thất bại của họ; có lẽ vì Uỷ ban Thượng viện đã đặt ra nhiều câu hỏi và lời phát biểu có tính cách khinh miệt để chế giễu một công tác mà Laird đã đặt trọn niềm tin; hoặc có lẽ vì thượng nghị sĩ Fullbright đã từng “bị” nổi tiếng là kẻ thù của quần chúng và kém một bậc so với tướng Võ Nguyên Giáp của Bắc Việt Nam. Vì vậy chính quyền hành pháp đã có ý không nên để cho Fullbright biết quá nhiều tin tức.

Cho dù với lý do nào đi nữa thì lời trình bày của Laird cũng không làm sáng tỏ được công tác giải cứu Sơn Tây và lại càng làm tăng thêm những sự hiểu lầm để đi đến các cuộc tranh luận gay gắt. Ngay sau khi ông ta được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng, một hiệu ăn nhỏ nằm trên đại lộ Con-trê-ti-cút cách Nhà Trắng khoảng 9 khu phố đã dành riêng cho Laird một sự tuyên dương đặc biệt bằng cách đặt tên của ông ta cho một loại bánh kỳ thịt gọi là: Bánh mì Men-vin Laird có dồn thịt “nói dối”, giá 1 đô-la 85. Tuy nhiên trong buổi điều trần trước uỷ ban của Fullbright, Laird đã phát biểu một lời chứng tỏ rằng không phải tất cả những lời nói của ông ta đều là nói dối cả. Đấy là lúc nghị sĩ Gia-vít hỏi: “Với việc tập kích một trại tù binh như vậy thì ông Bộ trưởng muốn Hà Nội phải bày tỏ thái độ ra sao?”. Laird trả lời: “Chúng tôi chỉ muốn bằng tất cả mọi giá cho dù phải sử dụng những phương tiện bất thường nhất để đem những tù binh ấy trở về như những công dân Mỹ tự do”. Và khi nghị sĩ Cơ-le-bớc Peo hỏi ông ta nghĩ về Bắc Việt Nam sẽ làm gì đối với tù binh do hậu quả của cuộc tập kích vừa qua, thì Laird đã nói như một lời tiên đoán:

“Tôi nghĩ rằng tù binh sẽ bị canh gác chặt chẽ hơn”.



phithiengia
20-04-2008, 22:35
Giao tế nhân sự

Tại Nhà Trắng vào ngày thứ tư 25 tháng 11. Tổng thống Nixon đã đích thân trao gắn huân chương cho bốn quân nhân tham dự cuộc tập kích Sơn Tây.

Trước buổi lễ, Laird hướng dẫn Manor và Simons vào văn phòng bầu dục của Tổng thống. Nixon muốn trực tiếp gặp riêng họ trong một vài phút để bày tỏ sự cảm ơn và để hỏi những việc gì đã xảy ra. Tổng thống tỏ vẻ rất thân mật, nhưng ông ta không tìm hiểu thêm được tin tức gì khác.

Nhân viên phục dịch tại Nhà Trắng mời rượu và cà phê trong khi mọi người ngồi thoải mái bên cạnh vị Tổng tư lệnh trong những chiếc ghế bành, đặt xung quanh một tấm thảm có dấu ấn to tướng “Tổng thống Hoa Kỳ”. Sau này được hỏi ông ta và Tổng thống đã nói gì với nhau thì Simons nhớ lại: “Không có nói gì nhiều. Tổng thống hỏi tôi đã tốt nghiệp trường võ bị Oét-panh vào năm nào. Tôi trả lời là tôi không học khóa võ bị sĩ quan, tôi chỉ là một sĩ quan trù bị được thăng cấp tại Mu-su-sơ-ri. Điều này có vẻ làm cho Tổng thống lúng túng”. Ông ta nói: “Thế à?” và quay sang phía Manor. Từ lúc đó trở đi thì hai người này nói chuyện với nhau. Simons còn nói thêm: “Buổi gặp gỡ chứng tỏ Tổng thống thật có lòng ưu ái, nhưng tôi nghĩ đấy là một cuộc gặp gỡ hơi căng thẳng tinh thần, buồn chán và không được thoải mái lắm”.

Buổi lễ gắn huân chương bắt đầu vào lúc 4 giờ 05 phút chiều tại phòng chiêu đãi cấp quốc gia tại tòa Nhà Trắng. Trước khi Laird đọc bản tuyên dương công trạng của từng người thì Nixon nói vài lời mở đầu đã được biên soạn trước. Simons được ân thưởng huân chương chiến công đặc biệt về sự anh dũng vượt bậc, đấy là huân chương cao thứ nhì của quốc gia dành cho những công trạng dũng cảm. Trung sĩ nhất bộ binh Ti-rôn A-đơ-rây, xạ thủ, súng phóng lựu M.79 thuộc toán chỉ huy của E.Sydnor, người đã hai lần xông vào làn đạn để tiêu diệt sự kháng cự của kẻ địch cũng nhận được huân chương chiến công đặc biệt. Trung sĩ chuyên viên cơ khí không quân Lơ-ry Vrai-tơ chân bó bột vì bị thương do bình chữa cháy trên trực thăng (Quả táo thứ nhất) bắn tung ra đụng phải, khi chiếc trực thăng đổ nhào xuống trong doanh tại Sơn Tây, được nhận huân chương Không quân chiến công bội tinh. Tướng Manor được ân thưởng huy chương chiến công đặc biệt. Tổng thống đích thân gắn huân chương cho từng người.

Lời phát biểu của Tổng thống và các bản tuyên dương công trạng chỉ nêu lên những sự kiện chung chung không bổ sung gì thêm ngoài những bài báo đã nói về cuộc tập kích hai ngày trước đó. Nixon bày tỏ sự hãnh diện của ông ta trong một công tác nhân đạo nhằm giải thoát những người đã bị giam giữ. Ông ta nói thêm là cuộc tập kích đã được thực hiện không những với lòng dũng cảm vô địch mà luôn cả với sự hữu hiệu vô địch nữa, mặc dù nghị sĩ Uy-li-am Pơ-rốc-mi-re sau này có mở cuộc điều tra về tổn phí dùng cho cuộc tập kích này. (Số phỏng định gần đúng nhất là khoảng 7 triệu đô-la nhưng có một vài người khác lại cho rằng số tổn phí có thể lên tới 70 triệu đô-la).

Nixon nói với những người có mặt trong buổi lễ: “Trước khi cho ban hành lệnh cuối cùng tôi đã cho dò hỏi nhiều điều và đã tìm hiểu được là tất cả mọi người tham dự công tác này đều là quân nhân tình nguyện”. Điều này Tổng thống nói đúng nhưng những lời trình bày tiếp theo, có lẽ do người viết diễn văn của Tổng thống tự biên soạn lấy hoặc do Tổng thống ngẫu hứng nói ra tại chỗ, đã làm cho các quân nhân được trao gắn huân chương cảm thấy bỡ ngỡ lạ lùng. Tổng thống nói: “Tôi cũng đã tìm hiểu được mỗi cá nhân tham dự công tác này và được biết trước khi đi là chỉ có 50% may mắn thành công mà thôi. Và tôi cũng tìm hiểu được mỗi cá nhân đã tham dự công tác này cũng đã biết trước khi đi là có đến 50% làm cho họ thiệt mạng”.

Tổng thống mời Laird, Moorer, đô đốc McCain, nhiều vợ của các tù binh Mỹ, và số đông đại biểu Quốc hội cùng nhà báo đi đến bắt tay chúc mừng và khen ngợi bốn người vừa được ân thưởng huân chương. Tổng thống rời phòng tiếp tân lúc 5 giờ 18 phút. Buổi lễ chỉ kéo dài có 13 phút - bằng một nửa thời gian dùng cho cuộc tập kích.

Tất cả ba hệ thống truyền hình đều chiếu lại khung cảnh buổi lễ vào tối hôm ấy. Nhưng nếu Nhà Trắng đã nghĩ rằng buổi lễ này có thể làm dịu bớt những trận dông bão tranh luận về cuộc tập kích thì thật là điều lầm lẫn. Nhà bình luận truyền hình đài CBS tên là E-ríc Sô-va-rây đã châm biếm rằng: “Mặc dù mọi người đều ngưỡng mộ các quân nhân anh hùng đã cố gắng thực hiện công tác đó, nhưng vẫn còn một số đông người cảm thấy có một điều gì khinh xuất trong quan niệm hành động”. Bình luận gia Giôn Sơ-cai-li của đài ABC lại nói: “Hệ thống tình báo cũ kỹ không chính xác là nguồn gốc đem đến sự thất bại trong công tác này. Chúng tôi muốn nói đến hệ thống tình báo quốc phòng của Lầu Năm Góc là cơ quan DIA chứ không phải Trung ương tình báo Hoa Kỳ CIA, vì CIA không có liên quan trong kế hoạch này”. Sơ-cai-li không nói rõ lý do về việc chỉ trích đó và không biết ông ta đã dựa trên cơ sở nào để nói rằng CIA không có liên quan trong cuộc tập kích này.

Đây là giai đoạn đầu trong sự cố gắng của CIA xuất phát từ Trung tâm chỉ huy tại Langley để gọi là “lo bảo vệ lấy mình”. Nhưng nhà báo thản nhiên với CIA sau này có đưa tin cuộc tập kích đã được hoạch định và thi hành không có hội ý với CIA. Cơ quan DIA là cơ quan cung cấp tin tức tình báo cho cuộc tập kích đã bị chỉ trích là đã trao cho các chuyên viên nghiên cứu kế hoạch Sơn Tây những nguồn tin cũ trên 6 tháng. Phó Tổng thống S. Ác-niu lại làm cho tình hình nặng nề thêm khi cố che giấu sự không hữu hiệu của tình báo - mặc dù viên phụ tá về quân sự và ngoại giao của ông ta sau này có tiết lộ là chính phó Tổng thống chưa hề được thông báo gì về cuộc tập kích, kể cả trước lẫn sau khi thi hành.

Cuộc tranh luận mới mẻ này lại càng làm lu mờ các động cơ nhân đạo của cuộc tập kích, và dẫn đến một sự đụng độ gay gắt khác giữa Laird và Fullbright. Được mời ra điều trần một lần nữa trước Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, Laird đã phủ nhận quan điểm của của Fullbright cho rằng CIA đã không được mời góp ý về cuộc tập kích. Ông ta nói: “Tất cả mọi cơ quan đều được hỏi ý kiến và tin tức liên quan đều lấy từ các cơ quan ấy”.

Fullbright đã cắt ngang lời của Laird với một lời tuyên bố hầu như buộc tội Laird là một người nói dối: “Điều đó không thật đúng. Chính tôi đã hỏi Giám đốc tình báo là ông ta có được hỏi ý kiến không, thì ông ta trả lời là không”.

Laird nói với vẻ giận dữ: “Tôi không nghĩ rằng lại có trường hợp như vậy; vị giám đốc tình báo đã được hội ý và có góp ý với chúng tôi”.

Fullbright vẫn giữ nguyên thái độ không lay chuyển. Tại Langley, trước cửa vào phòng khách lớn của cơ quan trung ương tình báo Mỹ, trên một vách tường bằng đá cẩm thạch có khắc những chữ to 7 inh-sơ hai câu như sau: “Và các anh sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các anh”. Tuy nhiên người phát ngôn của CIA lại từ chối không bình luận về vụ đối chất giữa Laird và Fullbright. Quả bóng đã được khôn khéo đá lọt vào lưới của DIA để trao mọi trách nhiệm cho DIA về sự thất bại Sơn Tây. Việc này lại càng làm căng thẳng thêm sự quan hệ với nhau giữa các giới tình báo Mỹ vốn dĩ từ lâu bị chia rẽ.

Trong ngày lễ tạ ơn, thứ năm 16 tháng 11, Tổng thống Nixon trong khi dùng bữa cơm tối với 106 quân nhân đã bị thương ở Việt Nam có hứa sẽ làm mọi cách để giải cứu tất cả tù binh. Cũng ngày hôm đó phái đoàn hòa đàm của Hà Nội tại Pa-ri tổ chức một buổi họp báo. Người phát ngôn của Bắc Việt Nam đã lên án các cuộc oanh kích gọi là bảo vệ đã được xuất phát vào ngày thứ bảy vừa qua.

Tại Mát-xcơ-va, tờ báo Pravđa đã lên án cuộc tập kích này là bước đầu tiên tiến đến việc nới rộng chiến tranh diện rộng vào ngay trong lãnh thổ củaBắc Việt Nam.

Vào đầu tháng 12, trong khi đang tính toán về 30 ngày sắp được nghỉ phép thì Simons nhận được điện thoại của Lầu Năm Góc. Ông ta được cho biết là Bộ trưởng Quốc phòng Laird sẽ bay đến căn cứ Fort Bragg cùng với một phái đoàn đông đủ đại biểu Quốc hội và nhiều nhân vật quan trọng khác cộng thêm với nhiều phái viên thông tấn của Lầu Năm Góc. Bộ trưởng Quốc phòng sẽ đại diện Tổng thống để trao gắn huy chương cho từng quân nhân trong cuộc tập kích Sơn Tây về chiến công xuất sắc và anh dũng. Vì lẽ các chi tiết tuyên dương công trạng của từng cá nhân một mà Simons đã đệ trình sau khi chấm dứt cuộc tập kích có vẻ đặc biệt, cho nên quân đội đã quyết định trình cho Laird đọc một bản tuyên dương chung cho tất cả mọi người. Các bản tuyên dương cá nhân sẽ được thiết lập sau và sẽ được lưu vào hồ sơ riêng của từng quân nhân. Cuộc điện đàm này chỉ có mục đích muốn thông qua với Simons về những lời tuyên dương mà Laird sẽ đọc trong buổi lễ. Simons hỏi thêm một vài điều nữa rồi dằn mạnh máy điện thoại xuống bàn.

Ông ta vừa được cho biết trong số 56 người đã tham dự cuộc tập kích vào Bắc Việt Nam, chỉ có thêm hai người nữa sẽ nhận được huân chương chiến công đặc biệt, loại huân chương mà Tổng thống Nixon đã gắn cho ông ta và trung sĩ A-đô-rây tại Nhà Trắng. Hai người khác sẽ nhận được huy chương anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc; 22 người nhận được anh dũng bội tinh với với ngôi sao đồng; trong số 30 người còn lại, có nghĩa là hơn một nửa tổng số toán tập kích, sẽ nhận được huy chương hạnh kiểm quân đội. Binh sĩ thường gọi loại huy chương này là món đồ chơi. Đây là một loại huy chương chỉ cao hơn một bậc đối với các bằng khen thưởng về hạnh kiểm tốt, mà bất cứ người lính nào cũng có thể nhận được nếu ở trong quân ngũ đủ ba năm mà không bị bệnh hoa liễu.

Đối với Simons thì việc này rõ ràng là ngành phụ trách ân thưởng huy chương của quân đội đã căn cứ trên các bản điều lệ thông thường để cấp phát huy chương cho lính của ông ta. Ông ta hình dung sự việc xảy ra như sau: một viên đại tá suốt đời ngồi mòn trên ghế nào đó đã nhìn sơ qua các bản tuyên dương công trạng mà Simons đã soạn thảo công phu và đệ trình xin chấp thuận, lướt nhanh qua rồi để sang một bên. Xong, ông ta lấy tập điều lệ về huấn lệnh quân đội số 101-10-1 ban hành vào tháng chín năm 1969, trong đó có ghi chú các điều hướng dẫn cho cấp chỉ huy biết cách cấp phát loại huy chương nào cho binh sĩ trực thuộc, theo lệnh thông thường. Xong, ông ta lại dùng máy tính để tính xem tổng số huy chương: như vậy thì có 2 ngôi sao bạc hoặc cao hơn, có 22 ngôi sao đồng, và 30 huy chương hạnh kiểm. Sau khi đã tính toán xong viên đại tá này đưa toàn bộ tập tuyên dương công trạng của Simons cho một tên thiếu tá dưới quyền nào đó và nói: viết lại các bản tuyên dương này cho đúng điều lệ quân đội.

Chán nản về cuộc điện đàm với Lầu Năm Góc vừa qua Simons bước ra khỏi văn phòng và nói với một trong các viên trung sĩ: “Anh gặp số may rồi đó. Anh sắp nhận được miếng vải xanh làm huy chương đeo chơi cho vui”. Tên trung sĩ sững sờ: “Thưa đại tá, tôi chẳng hiểu gì cả”.

“Rất là dễ hiểu, sao anh ngu dốt thế, Lầu Năm Góc nghĩ rằng anh đã đi Bắc Việt Nam để dự buổi khiêu vũ có tiệc trà liên hoan. Một tên chó má nào đó ở tại phòng ân thưởng huy chương có lẽ đã đần độn quá cho nên đã thi hỏng khóa học đọc bản đồ: hắn không tìm thấy địa điểm Sơn Tây ở chỗ nào cả, làm như Sơn Tây nằm ngay trong điện Krem-li. Hắn tưởng là anh đã đi khiêu vũ trong một nhà chứa gái mãi dâm trên đất địch”.

Tối hôm ấy, Simons quyết định làm cho ra lẽ việc này qua điện thoại. Ông ta gọi thẳng đến Trung tâm chỉ huy Fort Bragg và nói ngay với điện thoại viên ở tổng đài: “Đây là đại tá Simons. Muốn được nói chuyện khẩn cấp. Tôi muốn gặp tham mưu trưởng lục quân”.

Khoảng một phút sau tổng đài Lầu Năm Góc gọi lại cho Simons: Tướng Westmoreland đang trên đường từ I-ran trở về và sẽ đến căn cứ không quân Andrews khoảng 7 giờ sáng mai. Tướng Palmer hiện đang thường vụ cho Tham mưu trưởng lục quân nói: “Vậy đại tá Simons có muốn nói chuyện với tướng Westmoreland”.

Simons cố dằn lòng và không chửi thề rồi yêu cầu được nói chuyện với Palmer.

Chỉ trong một vài giây, tiếng của vị tham mưu phó lục quân ở đầu dây: Đây là Bruce Palmer, có việc gì đấy hở Bull?”

Simons bình tĩnh nói: “Thưa Đại tướng, có một tên chó má ngu đần nào đó sắp đưa ông Bộ trưởng Quốc phòng đến đây trong một hai ngày nữa với một cái thùng đựng đầy các mẩu vải xanh để dùng làm huy chương. Theo tôi nghĩ tốt hơn thì ông Bộ trưởng đừng nên đến, tôi sẽ khổ tâm khi nhìn thấy lính của tôi vứt bỏ các mẩu vải huy chương ấy xuống đất trước mặt một bầy nhà báo”.

“Sao! Tại sao lại vứt bỏ đi? Anh muốn nói gì đấy hở Bull?”.

Simons trả lời: “Thưa đại tướng, tôi không muốn đặt quân đội vào trường hợp khó xử, nhưng xin nói thật là một trong những người lính của tôi có thể sẽ nhét vào đít ông Bộ trưởng Laird tấm vải huy chương hạnh kiểm của quân đội. Binh sĩ của tôi đã liều mạng sống ngay sát nách Hà Nội; họ không đi thực tập du hành như các toán hướng đạo sinh ở tại một vùng ngoại ô nào đó ở Sài Gòn. Văn phòng ân thưởng huy chương thuộc quyền đại tướng đã cấp phát các loại huy chương này theo kiểu chiếu lệ cho xong việc và làm như chúng tôi đã buộc họ phải ra về muộn giờ để mất một buổi chơi gôn chiều thứ sáu. Đây không phải là việc thông thường. Binh sĩ của tôi đã quyết định mỗi người phải nhận được ít nhất là một ngôi sao bạc. Nếu không được thì tốt hơn không nhận gì cả. Đối với công trạng của họ thì các huy chương hạnh kiểm là một điều sỉ nhục chứ không phải ân thưởng”.

Palmer nói: “Tôi thông cảm với anh. Để tôi sẽ lo việc này”.

Ngày thứ tư 9-12-1970, Bộ trưởng Quốc phòng Laird đến căn cứ Fort Bragg trên chiếc máy bay riêng không lực số 2. Ông ta trao gắn 54 huy chương lục quân cho các quân nhân tập kích Sơn Tây. Trong số này có 4 huân chương chiến công đặc biệt và 50 anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc. Trong các hộp đựng huy chương của Laird không có loại huy chương hạnh kiểm nào cả.

43 quân nhân không quân tham dự cuộc tập kích cũng được ân thưởng huy chương trong buổi lễ này. John Allison, W.Britton, Marty Donohue và H.Kalen được ân thưởng huân chương không lực bội tinh, loại huân chương tương đương với huân chương chiến công đặc biệt của lục quân.

Bộ trưởng Laird gắn huân chương chiến công đặc biệt lên ngực áo của E.Sydnor và D. Meadows.

Bác sĩ Cataldo được thưởng anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc. Vài ngày sau khi cuộc tập kích chấm dứt, ông ta có đến gặp Mayer. Ông ta tình nguyện trở lại Bắc Việt Nam một lần nữa - như là một tù binh.

Cataldo biết rõ tù binh đang cần một bác sĩ. Vậy thì tại sao chúng ta không gửi ngay một bác sĩ đến cho họ? Ông ta nói với Mayer tôi sẵn sàng để cho các chuyên viên gắn bất cứ một loại máy bí mật nào đó vào người tôi để tiện theo dõi mọi hành động và cũng để giúp cho tôi báo cáo về tình hình tù binh hoặc có thể yêu cầu một cuộc tập kích khác khi cần.

Huy chương anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc mà Bộ trưởng Laird trao gắn cho ông ta đã làm tổn phí ngân quỹ do tiền thuế của nhân dân đóng góp lên đến 1 đô-la 70.

Mãi cho đến buổi lễ hôm ấy gia đình của Cataldo vẫn còn nghi ngờ về sự kiện chính ông ta có tham dự cuộc tập kích. Trước khi công tác này được xuất phát thì Simons, Manor và Mayer đã có hỏi ý tất cả mọi người ai muốn cho công chúng biết việc tham dự của mình trong cuộc tập kích này hoặc ai muốn được báo chí phỏng vấn sau khi công tác đã thi hành xong, với điều kiện là không được tiết lộ nhiều chi tiết hành quân đặc biệt. Đa số binh sĩ đều không muốn cho đăng tải tên tuổi của mình trên báo chí một cách công khai về việc này. Tuy nhiên khi Nixon và Laird quyết định ân thưởng huy chương cho mọi người trong một buổi lễ công khai thì sự việc này không còn che giấu được ai nữa. Việc trao gắn huy chương này là một cố gắng xoa dịu mọi cuộc tranh luận gay gắt xoay quanh vụ tập kích. Nhưng các bản tuyên dương công trạng với đầy đủ chi tiết mà Simons đã soạn thảo cho mọi người đều không được loan báo công khai. Còn nhiều vấn đề xung quanh cuộc tập kích mà chính quyền không muốn cho ai biết.

Có một huy chương được để dành lại không trao gắn. Đấy là huy chương quân vụ bội tinh dành cho một trung sĩ bậc nhất thuộc đại đội A, Phân đoàn 7, lực lượng đặc biệt. Một vài ngày trước khi cuộc tập kích được thi hành thì trung sĩ này vẫn còn ở trong toán xung kích của Simons. Nhưng Mác-xanh đã nhận được tin riêng cho biết đương sự có nhiều vấn đề rắc rối về gia đình. Và mặc dù là một binh sĩ dũng cảm, xuất sắc, nhưng đương sự đã bắt đầu phát sinh nhiều cảm nghĩ nghi ngờ trầm trọng về cục diện chiến tranh Việt Nam. Simons liền thuyên chuyển đương sự ra khỏi toán và đưa vào làm việc với toán yểm trợ gồm 36 người. Đương sự tỏ vẻ vô cùng bất mãn vì chỉ mong muốn có một điều duy nhất là được đi theo toán xung kích. Sau khi lực lượng xung kích rời Thái Lan thì “Mác-xanh” được tin tên trung sĩ ấy đã có ý định đào ngũ. Tuy nhiên đương sự vẫn làm việc chăm chỉ, cho nên sau khi xong công tác thì Simons có đề nghị cấp cho một huy chương quân vụ bội tinh. Vài ngày sau đó thì đương sự đào ngũ thật. Hắn đi Đan Mạch, rồi đến Thụy Điển và trở thành một người phản chiến. Vì lẽ đó E.Mayer đã giữ chiếc huy chương lại không cấp phát cho y. Một vài tuần lễ sau tên trung sĩ này đã đến trình diện tại phòng tùy viên quân sự Hoa Kỳ ở Thụy Điển và xin được phép quay về Mỹ để nhận án về tội đào ngũ. Nhưng may mắn cho y là quân đội không đưa ra xét xử trước tòa án quân sự mà cho đương sự giải ngũ.

Một trong những phần thưởng quan trọng khác cũng đã được thực hiện tại một buổi lễ không chính thức trong một tiệc trà thuộc vùng phụ cận Virginia.

Một vài giờ sau khi toán tập kích trở lại Udorn, một hạ sĩ quan của Simons đã lẻn ra khỏi căn cứ và tìm đến một hiệu may nhỏ thường có binh sĩ Mỹ lui tới ở ngay bên cạnh cổng chính. Anh ta hỏi chủ hiệu may liệu có thể thêu được 100 huy hiệu đeo vai trong vòng ba tiếng đồng hồ được không? Anh ta đưa cho chủ hiệu may xem một hình vẽ mẫu. Huy hiệu này hình tròn đường kính độ 2 inh-sơ. Nền vải đen có hình một cây nấm rơm màu trắng với hai con mắt liếc nhìn ở ngay dưới ô nấm. Phía dưới có một khung nhỏ thêu mấy chữ KITD/FOHS bằng chỉ đen trên nền trắng.

Đấy là buổi xế chiều ngày 21 tháng 11 viên hạ sĩ quan này vẫn còn mệt phờ, cặp mắt đỏ vì thiếu ngủ; anh ta vừa mới ở Sơn Tây về sau gần 8 giờ công tác. Việc lẻn ra ngoài căn cứ này cũng có thể bị đưa ra tòa án quân sự nhưng anh ta vẫn đánh liều. Đấy là một sự vi phạm an ninh vì anh ta đã rời phòng thẩm vấn tình báo trong doanh trại để đi ra ngoài và tìm cách đặt thêm các huy hiệu này. Thời gian quả là một vấn đề không rộng rãi lắm. Thay thế việc nghỉ tại Udorn một vài ngày thì cả toán tập kích lại được tin họ sẽ phải lên một chiếc máy bay tải thương C-141 dành riêng để chở tù binh. Ngay sau bữa ăn tối tất cả sẽ rời Thái Lan bay thẳng về Fort Bragg và Eglin. Vì lẽ đó viên hạ sĩ quan này tự quyết định sẽ không đi về nếu chưa thuê may được các huy hiệu.

Người chủ hiệu may hỏi lại một trong những thợ may đang làm việc tại một phòng chật hẹp phía trong và quay trở ra báo cho biết có thể nhận hàng được nhưng với giá 2 đô-la Mỹ một chiếc. Viên hạ sĩ quan hỏi người chủ hiệu may có thể làm cho xong trước 5 giờ chiều được không?

Khi tất cả những người tham dự cuộc tập kích Sơn Tây trở về nhà và có thể nói cho gia đình biết rõ trong mấy tháng qua họ đã đi đâu và làm gì. Có một vài người tổ chức tiệc trà liên hoan. Sau khi đệ trình báo cáo sau hành động, gửi thư cảm ơn cho các nơi đã giúp đỡ, Simons đã đề nghị ân thưởng huy chương cho những người có công, các nhân viên thuộc văn phòng kế hoạch người có công, các nhân viên thuộc văn phòng kế hoạch và yểm trợ cũng bắt đầu được nghỉ xả hơi. Vào thượng tuần tháng 12, trung tá không quân Benjamin Krajlev mời Blackburn đến dự tiệc tại nhà riêng ở gần Virginia. Trung tá Krajlev là một trong những chuyên viên kế hoạch hành động quan trọng của Manor. Trong tiệc trà, Krajlev yêu cầu mọi người im lặng và quay sang phía Blackburn nói: “Thưa thiếu tướng, anh em đã có ý thực hiện một loại huy hiệu riêng cho cả toán. Chúng tôi cũng mong muốn thiếu tướng nên đeo một chiếc. Thiếu tướng xứng đáng đeo huy hiệu này lắm”. Nói xong ông ta trao cho Blackburn huy hiệu màu đen hình tròn. Blackburn nhìn vào cặp mắt chế giễu đang ló nhìn phía dưới cây nấm rơm, ông ta cười và hỏi: “Những chữ KITD/FOHS này nghĩa là gì?”.

Trung tá Krajlev bình thản trả lời: “Thưa thiếu tướng, ý nghĩa đó dành riêng cho bọn chúng tôi: ẩn mình trong bóng tối và chỉ ăn phân ngựa mà thôi”.



phithiengia
20-04-2008, 23:04
Sau khi chết

Dù dư luận quần chúng như thế nào đi nữa thì Lầu Năm Góc cũng đã bị lay chuyển bởi các phản ứng đối với cuộc tập kích Sơn Tây. Trước khi Laird bay đi Fort Bragg để gắn huy chương cho toán tập kích thì báo cáo sau hành động của Manor từ Thái Lan gửi về đến nay mới tới nơi - gần một tuần lễ sau khi chấm dứt công tác. Một phần báo cáo này - may mắn thay, đấy là phần ít quan trọng nhất - lọt vào tay của nhà báo Giắc An-đê-sôn. Trước đây Laird đã bực bội về hệ thống truyền tin bị hư hỏng qua nhiều giai đoạn hành động trước cuộc tập kích, bây giờ Laird đã bực lại càng cảm thấy khó chịu hơn nữa khi nhận được bản báo cáo quá muộn và khi biết được một phần tin tức đã lọt vào tay An-đê-sôn. Ông ta và Moorer quyết định đã đến lúc cần phải chỉnh đốn lại hệ thống truyền tin quân đội Mỹ trên khắp thế giới.

Một sự chỉnh đốn khác nữa cũng cần phải thực hiện. Phần nhiều các lời chỉ trích, chê bai cuộc tập kích đều hướng về các cơ quan tình báo đã yểm trợ cho công tác này. Mặc dù Laird đã mạnh dạn tuyên bố rằng các toán tập kích được cung cấp nguồn tình báo có hiệu lực nhất, mặc dù các giới chức trong các cơ quan tình báo đã cố gắng tránh né không ai chịu lĩnh trách nhiệm về mình hoặc cố ẩn mình sau bức tường yên lặng thì báo chí và dư luận quần chúng vẫn thấy rõ một điểm: một công tác quân sự đầy thiện chí đã bị sơ xuất tình báo làm thất bại ngay từ phút đầu. Cảm nghĩ này cũng không quên nhằm vào Lầu Năm Góc và tòa Nhà Trắng. Sau này một viên chức cao cấp thuộc Hội đồng An ninh quốc gia có phát biểu ý kiến: “Sơn Tây là cọng rơm cuối cùng”. Trong thời điểm này Hội đồng an ninh quốc gia đã nhìn thấy cuộc tập kích là một sự thất bại hơn nữa để bắt buộc phải bắt tay nhanh chóng cải tổ sâu rộng hệ thống tình báo, việc này cần được thực hiện một năm sau.

Tuy nhiên trong khi chờ đợi, Lầu Năm Góc đã chỉ thị cho điều tra để xác định nguyên nhân đưa đến sự thất bại của cuộc tập kích có phải là do tình báo kém hiệu lực hay là do vấn đề sơ xuất an ninh. Cuộc điều tra này đã đem đến nhiều dữ kiện có ý nghĩa đặc biệt về phản ứng của kẻ địch đối với cuộc tập kích Sơn Tây.

Hai tháng sau cuộc tập kích, Sun-li Phon-tai-ne đang hưởng tuần trăng mật thì một vị “cố vấn” ở tòa đại sứ Mỹ đã đi lùng gặp và yêu cầu ông ta bay đi ngay Hồng Công trên chuyến bay sớm nhất. Tại đây sẽ có người gặp với đầy đủ chỉ thị khác; Phon-tai-ne đã có ý định nghỉ xả hơi một tuần với người vợ mới cưới tại Băng Cốc, một trong những thành phố mà ông ta thích nhất. Nhưng sau 28 năm lăn lộn trong ngành tình báo, ông ta đã quá quen với việc nhận được lệnh bất thường, tại một thời điểm bất thường như thế này.

Phon-tai-ne là một chuyên viên tình báo hoạt động mật của quân đội giàu kinh nghiệm. Ông ta 44 tuổi người Bỉ gốc Pháp, nói thông thạo bốn ngoại ngữ. Ông ta tham gia quân đội Hoàng gia Anh vào năm 1948, tốt nghiệp trường huấn luyện biệt kích và nhảy dù, và đã từng nhảy dù xuống châu Âu để hoạt động với cơ quan phản gián Mỹ, và các tổ chức kháng chiến của Hà Lan, Bỉ, Pháp. Ông ta được thưởng chiến công bội tinh với cành dương liễu của cả nước Bỉ và nước Pháp. Sau chiến tranh, ông ta học khoa triết tại trường quân sự Bỉ, rồi được kéo vào quân đội Hoa Kỳ để làm sĩ quan huấn luyện trong khi chiến cuộc Triều Tiên đang vào hồi kết thúc. Tại đó, ông ta chỉ huy Đội danh dự của Liên hợp quốc, một đội có danh tiếng gồm một đơn vị 99 người Mỹ cộng thêm những toán quân tinh nhuệ đặc biệt của bảy quốc gia khác. Phon-tai-ne có được một lực lượng quốc tế gìn giữ hòa bình của riêng mình. Nhưng ông ta lại sớm quay về với công việc “bí mật”, chỉ huy một trong các đội huấn luyện lực lượng đặc biệt đầu tiên của quân đội ở Triều Tiên.

Trong ba năm sau, những nhiệm vụ của Pho-tai-ne thay đổi bất thường giữa quân báo và công tác của lực lượng đặc biệt. Năm 1959 ông ta được gửi đến toán thứ 10 của lực lượng đặc biệt tại Đức. Ông ta đã tổ chức những “sứ mệnh đặc biệt” ở châu Phi và Trung Đông. Vào năm 1963, ông ta được gửi đi Việt Nam để tổ chức một trại lực lượng đặc biệt ở giữa vùng sông Mê Công qua Cam-pu-chia, và giúp huấn luyện các đơn vị người Nam Việt Nam và Cam-pu-chia. Ông ta làm việc đó rất có kết quả và kết thúc nhiệm vụ ở nhóm Hoạt động đặc biệt của Don Blackburn. Blackburn giao cho ông ta tổ chức mạng lưới điệp viên, tuyển bộ những người trên cao nguyên và giám sát những hoạt động đặc biệt ở Cam-pu-chia và Lào.

Sau ba chuyến đi công tác ở Việt Nam Phon-tai-ne được giao phó công việc tình báo hình sự ở châu Âu. Một trong những nhiệm vụ của ông ta là phục vụ dưới danh nghĩa sĩ quan liên lạc quân sự Mỹ với tổ chức Cảnh sát quốc tế. Hai năm sau đó, ông ta trở lại Đông Nam Á, điều tra các tổ chức quốc tế về trọng tội ở khắp Viễn Đông. Ông ta được nghỉ phép sau một chuyến công tác dưới danh nghĩa là chỉ huy phó trong tổ chức điều tra hình sự của tất cả quân đội tại miền Tây Hoa Kỳ. Ông ta có ý định sẽ làm cho vợ quen với đời sống ở San Phơ-ran-sít-cô khi mà tuần trăng mật của họ kết thúc.

Phôn-tai-ne và vợ lập tức bay đi Hồng Công. Ở đấy, một “cố vấn” khác của tòa đại sứ đã đón máy bay của ông ta và trao cho ông một phong thư. Thế là việc nghỉ phép của ông ta bị cắt bỏ, đồng thời được lệnh bay đi Oa-sinh-tơn.

Tại Oa-sinh-tơn, Phôn-tai-ne được đưa đến Lầu Năm Góc và cuối cùng đi đến “một nơi như là một cái hòm” - ông ta kể lại: Tại đấy trong một văn phòng chật hẹp ngoài cửa có mấy chữ: “chỉ đặc biệt mới được vào”. Đến đây ông ta được biết: “chúng tôi vừa được lệnh điều tra một tiết lộ về vụ tập kích Sơn Tây. Ông là người được uỷ thác nhiệm vụ đó”. Đây không phải là một cuộc điều tra như thường lệ. Sự vụ lệnh của ông do đại tướng B.Palmer quyền tham mưu trưởng lục quân ký, “theo chỉ thị của Bộ trưởng Quốc phòng”.

Phôn-tai-ne chỉ biết vụ tập kích trại tù Sơn Tây qua những gì ông ta đọc. Trong hai ngày, ông ta xem xét các hồ sơ về Sơn Tây: những dự thảo báo cáo sau hành động, những đánh giá về phần tình báo, những hồ sơ về an ninh, “tất cả những gì có dính líu vào”. Ông ta kết luận rằng việc điều tra về một tiết lộ bí mật có thể xảy ra là một việc khôi hài. Với những người chuyên nghiệp như Simons và Blackburn đứng đằng sau cuộc tập kích, thì không thể có sự tiết lộ gì. Hơn nữa, ông ta biết rằng, nếu có sự tiết lộ bí mật thì Simons và những người của ông này sẽ bị nghiền nát như tương sau vài giây đổ bộ xuống Bắc Việt Nam. Simons đã mang trở về tất cả số người của ông thật sự là không ai chạm đến. Phôn-tai-ne đã từng phục vụ cho Simons - “người quân nhân vĩ đại nhất mà tôi chưa từng gặp”.

Nhưng cuộc gặp gỡ giữa Phôn-tai-ne và Lầu Năm Góc có vẻ “sắt đá” lắm: “Không, chúng tôi có sơ hở. Như anh đã biết, không có một ai lúc họ đến. Ở đâu đây trước khi thi hành cuộc tập kích, có kẻ nào đã biết. Chúng tôi có cảm nghĩ là tình báo nước ngoài đã biết về cuộc tập kích, họ đã báo cho Bắc Việt Nam và vì thế mà trại tù trống rỗng”.

Đối với Phôn-tai-ne thì toàn thể cuộc điều tra này có vẻ như là một tình trạng hỗn độn giữa những cơ quan tình báo khác nhau đang cố đẩy trách nhiệm của chính mình cho kẻ khác. Nhưng ông ta cũng chọn một toán người điều tra. Gửi một người trong nhóm đến căn cứ Fort Bragg và một người khác đến căn cứ không quân Eglin, trong khi ông ta bay trở lại Đông Nam Á không có vợ đi cùng.

Qua các nguồn tin khác, Phon-tai-ne biết chắc rằng không có một sơ hở nào về cuộc tập kích, qua các đường dây tình báo thân hữu. Các cuộc tiếp xúc với đồng nghiệp người Anh đã cho ông ta biết rõ một quan niệm về phương thức làm việc. Lúc nào Phon-tai-ne cũng nghĩ rằng: “Nếu muốn biết việc gì sắp xảy ra trong tuần tới tại Oa-sinh-tơn, thì đừng đi Oa-sinh-tơn mà nên đến Luân Đôn”. Và một trong các đồng nghiệp người Anh của ông ta, lúc bấy giờ là Trưởng ngành quân báo của Anh tại Bắc Mỹ, đã tỏ ra khâm phục nói rằng: “Chính chúng tôi cũng bị sửng sốt. Đây là lần đầu tiên mà các tên to mồm ở phía các anh đã không mở miệng nói điều gì cả”.

Mặc dù Phon-tai-ne là một chuyên viên thuộc loại cừ nhưng ông ta cũng không thể khám phá ra việc sơ hở trong đường dây an ninh đối với cuộc tập kích. Chuyện này xảy ra tại Hawaii, tại đấy chỉ có ba sĩ quan biết trước được việc hành quân này. Người thứ nhất là đô đốc John McCain, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương. Người thứ hai là Đại tướng C. Cóc-co-ran, Tham mưu trưởng thuộc Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. Và người thứ ba là một sĩ quan không quân, kém hai vị trên bảy bậc, tên là An-đô-riu Phóc-thơ, mặc dù tên này không được phép biết về chuyện tập kích. Nói theo giọng chuyên nghiệp của ngành quân báo thì viên sĩ quan này chỉ là một nhân viên phòng nhì, và những điều gì anh ta biết đều do suy luận cá nhân mà ra.

Phóc-thơ là một đại uý tình báo trẻ tuổi thuộc ngành “vượt ngục và trốn thoát” của binh chủng không quân ở Thái Bình Dương, làm việc tại căn cứ không quân Hi-kam. Viên sĩ quan cao 5 bộ 11 inh-sơ, tóc vàng gợn sóng này là người phụ trách việc quản lý tài liệu cũng như kế hoạch có liên quan đến tù binh, đồng thời cũng phụ trách cả việc thẩm vấn các tù binh đã được trao trả. Anh ta yêu cầu mỗi không đoàn chiến đấu thuộc Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương đều phải có một bản đồ đặc biệt riêng về vùng Bắc Việt Nam có kèm theo hình ảnh chỉ rõ các khu vực có trại tù binh. Tất cả mọi việc liên lạc về vấn đề tù binh ví dụ như công điện, hình ảnh trinh sát, các tài liệu phân tích tình báo, đều phải đi qua văn phòng làm việc của anh ta. Anh ta làm việc chặt chẽ với toán thám báo kỹ thuật 548, toán đã soạn thảo ra các tài liệu về tình hình tù binh bị giam giữ tại Bắc Việt. Tập tài liệu này được xem như một cuốn Thánh kinh đối với những ai muốn biết về tin tức tình báo tù binh trong đó có hình ảnh của mỗi tù binh hoặc mỗi binh sĩ bị mất tích, và lời khai của những nhân chứng quan trọng về họ. Tập tài liệu này đã được sử dụng rộng rãi trong việc thẩm vấn những bộ đội đào ngũ hoặc bị bắt giữ của Việt cộng hoặc của Bắc Việt. Văn phòng của Phóc-thơ nói đúng ra là một căn hầm làm việc chung với các chuyên viên thám báo có nhiệm vụ kiểm soát các tài liệu thuộc về không lực đối với các công tác tình báo.

Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1970, Phóc-thơ bắt đầu lưu ý đến các công văn trước đây đã được đánh dấu “mật” thì bây giờ tăng lên là “tối mật”. Còn những công văn “tối mật” thì lại tăng lên “tuyệt mật”. Trường hợp này được đặc biệt sử dụng trong các hệ thống công văn thuộc về công tác thám báo tại Bắc Việt Nam. Một sự kiện nữa là các tấm ảnh trước đây thường được chuyển đến văn phòng anh ta thì nay không còn chuyển tiếp nữa. Như vậy chứng tỏ là anh ta thuộc loại nhân viên không cần thiết được biết đến những việc này. Anh ta có cảm nghĩ là có chuyện gì khác thường đang xảy ra. Tuy nhiên, vì lý do thiết lập kế hoạch Sơn Tây cần phải có nhiều tin tức phản gián, cho nên anh ta vẫn thấy được một vài dữ kiện có liên quan đến công tác trinh sát của không lực.

Ngoài ra cũng còn một vài dấu hiệu khác chứng tỏ là có một việc đặc biệt nào đó đang xảy ra. Phóc-thơ thường nhận được những cú điện thoại từ các văn phòng đã bị “gạt ra ngoài lề” gọi đến để tò mò hỏi xem việc gì đang xảy ra. Trong toàn vùng Thái Bình Dương, các phương tiện và nhân sự như là máy bay các loại, thiết bị truyền tin đặc biệt, các chuyên viên đang được điều động di chuyển chỗ này sang chỗ nọ. Thời gian trôi qua và càng ngày các sĩ quan không quân tại Thái Bình Dương càng cảm thấy khó làm việc. Họ không thể điều hành được phần công việc trong cuộc chiến tranh này một cách hữu hiệu vì lẽ tất cả các phương tiện dưới quyền kiểm soát của họ trước đây đã bị chuyển đi nơi khác mà không có lời giải thích để phục vụ cho những công tác mà họ không được quyền biết đến.

Vào ngày thứ tư 11 tháng 11, chín ngày trước cuộc tập kích Sơn Tây, một thiếu tá quân y thuộc Tổng y viện Thái Bình Dương đã gọi điện thoại cho Phóc-thơ với vẻ hoang mang. Ông ta hỏi Phóc-thơ biết gì về việc một chiếc máy bay tải thương loại C-141 đã bị chuyển ra khỏi hệ thống dành riêng cho chiến trường Việt Nam và được đặt vào hệ thống trực khẩn cấp tại căn cứ không quân Clark ở Philippines. Đây là chiếc máy bay tải thương đặc biệt dùng để chở khoảng 55 thương binh với đầy đủ giương nệm. Vị sĩ quan quân y này nói thêm cho Phóc-thơ biết là chiếc máy bay này được lệnh chờ xuất phát vào bất cứ giờ phút nào. Ông ta không thể hiểu việc gì đã xảy ra, chỉ có thể nghĩ là chiếc máy bay này sẽ được dùng cho công tác tải thương thông thường. Cuộc chiến vẫn còn đang xảy ra dữ dội tại miền Nam Việt Nam - đã có 312 quân nhân Mỹ tử thương và 1940 bị thương vào tháng mười năm 1970.

Phóc-thơ trả lời là anh ta không có khái niệm nào cả. Nhưng rồi con số 55 đã làm cho anh ta suy nghĩ - một chiếc máy bay tải thương đặc biệt để chở 55 thương binh. Như vậy là có nghĩa gì? Đấy chính là con số tù binh mà Phóc-thơ đã đọc được trong tài liệu mới nhất của DIA, con số tù binh còn đang bị giam giữ tại Sơn Tây. Anh ta kiểm soát lại các tài liệu tình báo về các đường bay trinh sát mà các hình ảnh đã chụp nhưng không còn được quyền xem nữa. Các đường bay này rõ ràng là hướng về Sơn Tây. Đột nhiên Phóc-thơ có cảm nghĩ một cuộc tập kích tại Sơn Tây sắp xảy ra.

Mặc dầu biết đấy là một loại công tác mà anh ta không được phép biết, đấy là câu chuyện mà không nên thảo luận với ai cả. Nhưng ý nghĩ này vẫn còn ám ảnh anh ta. Ngày thứ hai tuần sau, 16 tháng 11, anh ta tự lập một bản thuyết trình tình báo riêng cho mình - đấy là một bản sơ đồ có thể dùng để gắn các hình ảnh và bản đồ để trình bày diễn tiến công tác. Sau đó các tấm ảnh được tháo ra ngay, bỏ vào phong bì, và cho vào tủ hồ sơ khóa lại trong căn phòng mật kín. Qua bản thuyết trình tự lập này, các dấu hiệu tình báo lại càng chứng tỏ cho anh ta biết một cuộc tập kích tại Sơn Tây thật là điều rõ ràng. Phóc-thơ đã thu xếp bản thuyết trình và cất giữ riêng, nhưng vào ngày thứ tư thì anh ta có căn dặn viên sĩ quan trực tại Trung tâm tình báo phải gọi cho anh ta biết ngay nếu có tin tức gì mới về tù binh - bất cứ là tin tức gì qua hệ thống phát thanh, công điện, báo chí ngoại quốc v.v…

Hai ngày sau, vào tối 26 tháng 11, Phóc-thơ nhận lệnh bất ngờ đến trình diện tại văn phòng chỉ huy Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương. Tại đấy anh ta thấy có một đám người đông. Một việc gì đó đang xảy ra tại Bắc Việt Nam. Mọi người có vẻ bị dao động - hệ thống phòng thủ của không quân đang hoạt động tối đa, hệ thống tên lửa được bắn ra như những tràng pháo dài, hệ thống truyền tin được sử dụng đến cao độ mà từ bao năm qua tại Bộ tư lệnh Thái Bình Dương chưa hề xảy ra - và không một ai biết rõ vì sao.

Phóc-thơ quan sát vị thủ trưởng của mình là đại tá Pát Go-phớt, phó giám đốc tình báo thuộc Bộ tư lệnh không quân Thái Bình Dương đang đứng nhìn tất cả mọi sự xáo trộn này. Vị phó tư lệnh Thái Bình Dương là đại tướng Giôn La-ven cũng có mặt trong đám đông. Mọi người vây xung quanh và cố gắng giải thích cho La-ven biết những sự kiện mà Bắc Việt Nam đang thực hiện - nhưng không một ai có thể giải thích được tại sao phía địch lại làm như vậy. Trong lúc ấy thì Phóc-thơ quay trở về văn phòng, lấy bản thuyết trình ra khỏi hầm kín, sắp xếp lại, dùng một tấm vải bọc quanh và đem đến Bộ tư lệnh. Anh ta đến gần vị giám đốc trực phòng là đại tá Oan-te Sơ-te-ven và báo cáo: “Thưa đại tá, tôi nghĩ là tôi có thể biết được việc gì đang xảy ra”.

Bấy giờ là vào khoảng 9 giờ 30 tối. Chưa có ai có thể giải thích cho vị phó tư lệnh Thái Bình Dương biết được việc gì đang xảy ra ầm ĩ tại Bắc Việt Nam. Cuối cùng có người báo cáo với La-ven là tên đại uý Phóc-thơ có thể biết được một vài việc gì đó. Phóc-thơ mở tấm vải bọc bản thuyết trình ra và nói: “Tôi tin chắc đây là một cuộc tập kích ở Sơn Tây. Cho phép tôi trình bày tại sao tôi lại nghĩ như vậy”.

La-ven nghe sơ qua vài lời thuyết trình rồi nhìn vào đôi mắt của Phóc-thơ, và nói thẳng thừng: “Mẹ kiếp, tôi nghĩ là đại uý đã điên rồi?”.

Phóc-thơ vội vàng rút lui ra khỏi đám đông. Anh ta chỉ còn nhớ lại một phản ứng về vị chỉ huy cao cấp mới gặp: “Thật lạ quá! Tướng La-ven chưa bao giờ chửi thề cả”.

La-ven về lại văn phòng dùng điện thoại đỏ, đấy là đường dây thượng khẩn liên lạc thẳng với Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương và yêu cầu được nói chuyện với đô đốc McCain. La-ven được cho biết McCain đang ở trong phòng hành quân và không ai được phép quấy rầy ông ta. La-ven yêu cầu được nói chuyện với tướng Cóc-co-ran, nhưng Cóc-co-ran hiện ở trong phòng với McCain và cũng không ai được phép quấy rầy. La-ven yêu cầu một sĩ quan tùy viên đem một phiếu trình nhỏ vào phòng cho hai vị ấy. Trên phiếu trình này ông ta giải thích về sự lo lắng liên quan đến một chuyện gì lớn lao đang xảy ra tại Bắc Việt Nam. Một vài giây sau thì có tiếng một vị phó đô đốc nói ở đầu dây: “Các vị tư lệnh đã biết rõ mọi việc rồi. Dù có xảy ra việc gì đi nữa thì tình hình cũng đã được kiểm soát an toàn. Yêu cầu La-ven chỉ thị cho mọi người yên tâm, đừng thắc mắc và đừng bàn tán, suy luận”.

Ba ngày sau, 23 tháng 11, La-ven nghe Bộ trưởng Quốc phòng Laird họp báo tại Lầu Năm Góc về một cuộc tập kích giải thoát tù binh tại một trại tù gọi là Sơn Tây. Một trong những điều lạ lùng của hệ thống truyền tin quân sự mà ít ai ngờ tới là sự việc các buổi họp báo hàng ngày tại Lầu Năm Góc đều được các Bộ tư lệnh lớn trên thế giới bắt được rõ ràng như cuộc họp báo đang xảy ra trước mắt. Một số ít nhà báo tại Lầu Năm Góc cũng không thể ngờ được những câu hỏi gay gắt của họ về cuộc chiến Việt Nam, thường được nhiều người nghe qua đường dây trực tiếp, từ Tê-hê-răng cho đến Sài Gòn đều bắt được.

Ngày hôm đó khi đang làm việc dưới căn hầm thì Phóc-thơ nhận được lệnh đến trình diện vị phó tư lệnh. Khi anh ta bước vào văn phòng thì La-ven vẫn còn đang nghe buổi họp báo của Laird. La-ven nói: “Đại uý ngồi xuống đây. Tôi nghĩ là anh cũng thích nghe buổi họp báo này với tôi”. Trong suốt cả quá trình thực hiện chiến dịch Sơn Tây đây là một cử chỉ thân thiện nhất mặc dù không nói rõ ra. Khi buổi họp báo chấm dứt, La-ven hỏi Phóc-thơ: “Có chắc là anh không được biết trước việc gì đã xảy ra không?”. Phóc-thơ trả lời: “Thưa đại tướng, tôi không được biết trước, tôi chỉ đoán thôi”.

Suốt cả 5 năm qua, Blackburn và Mayer không hay biết gì về câu chuyện của Phóc-thơ. Một trong hai người đã phản đối cho rằng câu chuyện ấy không thể nào xảy ra được, vì không thể nào có sự sơ hở về vấn đề an ninh bảo mật suốt trong quá trình kế hoạch tập kích và cho dù có sơ hở đi nữa thì cũng không ai có thể khám phá ra được sớm như vậy: có thể một việc gì bất ổn nào đó sẽ xảy ra sau cuộc tập kích mà thôi. Cũng trong thời gian 5 năm trôi qua Mayer vẫn không tin là Phon-tai-ne đã thực sự điều tra về mọi việc sơ hở đối với vấn đề an ninh quanh vụ Sơn Tây; ông ta chưa nghe ai nói về việc này cả, vì nếu có thì chính ông ta là người đã bị hỏi trước tiên.

Mayer cũng nghĩ rằng Phon-tai-ne có lẽ cũng bị tức tối không kém khi có một nhà báo tiết lộ là Simons đã đổ bộ nhầm doanh trại.

Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp đã dành nhiều thời gian trong suốt năm đó để hoạch định một phương án hành động ngay sau khi cuộc tập kích Sơn Tây chấm dứt. Vì lẽ quá lo lắng, gần như là tuyệt vọng trong việc giải quyết vấn đề tù binh. Lầu Năm Góc đã sẵn sàng đề nghị việc tái diễn một cuộc tập kích như ở Sơn Tây, nhưng trên một địa bàn rộng lớn và có nhiều rắc rối hơn. Đầu năm 1972 các vị tư lệnh trong Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp đã họp mặt để xét lại kế hoạch này. Moorer nghĩ đấy là một kế hoạch tốt cho nên đã mời Laird đến tham dự buổi họp thứ nhì vào đầu tháng 5.

Trong thời gian này chỉ còn 62.600 lính Mỹ ở tại Việt Nam, nhưng con số tù binh đã tăng lên 525 và 1150 bị mất tích tại Đông Nam Á, tổng thống Nixon đã thăm Trung Quốc và Bắc Việt Nam đã tiến công dữ dội miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ giáng trả lại bằng cách thả mìn cảng Hải Phòng. Các cuộc thả bom tại miền Bắc lại được thực hiện. Tuy nhiên Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục từ chối thảo luận vấn đề tù binh. Hoa Kỳ ở trong tình trạng thất vọng và các vị tư lệnh hỗn hợp đã sẵn sàng lưu tâm đến bất cứ kế hoạch nào có thể đem được tù binh về nước.

Đề nghị mà các chuyên viên kế hoạch trong Bộ Tổng Tham mưu hỗn hợp trình lên cho giới lãnh đạo đầu não đã chứng tỏ tình hình liên quan đến tù binh đã trở nên tuyệt vọng và cũng đồng thời chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ thiết tha đến các tù binh này. Đề nghị này đưa ra kế hoạch tổ chức một cuộc tập kích quy mô gồm 2 sư đoàn rưỡi đổ bộ vào Bắc Việt Nam, như là một cuộc xâm chiếm gồm 57.500 lính để cứu khoảng 500 tù binh Mỹ. Cuộc đại tập kích này phối hợp nhảy dù, xe lội nước và các đơn vị cơ động không quân để ồ ạt bao vây Hà Nội bằng quân đội Mỹ, ngăn chặn mọi ngả đường của Bắc Việt Nam. Các toán biệt kích nhỏ sẽ chiếm trại tù Hỏa Lò, và những trại tù khác như ở Sở Thú, là những nơi được biết có tù binh bị giam giữ. Để che giấu việc điều động các đơn vị nhảy dù trong khu vực sát Hà Nội, một kế hoạch ngụy trang được đưa ra làm giống như có các cuộc thao dượt hỗn hợp đang được tổ chức tại vùng Tây Thái Bình Dương, trong đó sư đoàn nhảy dù 82 sẽ tham dự lần đầu tiên. Sau khi tập dượt tại một hòn đảo nào đó trên đường đi tham dự cuộc thao dượt, sư đoàn 82 sẽ bất ngờ nhảy ngay xuống những điểm chốt quanh vùng ngoại ô Hà Nội. Trong khi đó các toán biệt kích sẽ nhảy dù xuống các trại tù ngay trong vòng thành Thủ đô. Kế hoạch được soạn thảo tỉ mỉ - một lần nữa các chuyên viên kế hoạch Sơn Tây cũng có tham dự hoạch định việc này tỉ mỉ cho đến mức các sơ đồ chi tiết đặt ống cống tại trại tù Hỏa Lò cũng đã nhờ được các chuyên viên họa đồ và kỹ sư Pháp, người đã đặt các ống cống này hàng bao năm trước đây thuật lại.

Một cuộc đại tập kích như vậy sẽ là một “trò chơi” ngoài sức tưởng tượng, có thể coi như là một canh bạc. Các chuyên viên kế hoạch biết trước sẽ có nhiều binh sĩ tập kích chết hơn là số tù binh được cứu thoát, và họ cũng không biết rõ được từng địa điểm một có giam giữ tù binh. Cơ quan DIA chỉ có thể xác định được 9 địa điểm trong số 13 trại tù mà Bắc Việt Nam đã từng sử dụng hoặc đang sử dụng - kế hoạch cũng có dự kiến chỉ giải thoát được số tù binh tại các trại tù đã được xác định mà thôi. Họ suy luận rằng sau cuộc đại tập kích này Hà Nội sẽ trao trả những tù binh nào còn sót lại mà các toán tập kích đã không thể tìm ra địa điểm để giải cứu được.

Các toán biệt kích này sẽ được hoạt động tự do hơn là các toán biệt kích trước đây của Simons. Nhiệm vụ của họ không những chỉ lo việc cứu càng nhiều tù binh càng tốt mà lại còn cố lo bắt cóc được viên chức cao cấp nào của Bắc Việt Nam - cấp bậc càng cao thì càng quý - và áp giải những người bị bắt cóc này ra khỏi Việt Nam. Sau đó Bắc Việt Nam sẽ được mời thảo luận việc trao đổi giữa các tù binh còn sót lại với những người cao cấp bị bắt cóc và như vậy thì canh bạc sẽ đảo ngược.

Mặc dù kế hoạch này đã được triển khai đến điểm một sư đoàn lính thủy đánh bộ sẵn sàng xuống tàu và các lực lượng khác sẵn sàng lên đường, nhưng cuối cùng lệnh xuất phát tối hậu đã không được ban ra. Một trong những chuyên viên kế hoạch sau này có nói là theo quan điểm của ông ta thì một cuộc tập kích như vậy sẽ chấm dứt ngay cuộc chiến. Ông ta nói thêm: “Cái nước quỷ quái này thật sự đã tuyệt vọng. Đấy là điều gần như chúng ta bắt buộc phải làm. Nếu chiến dịch quy mô này được xuất phát thì cuộc chiến sẽ chấm dứt trong vòng hai tuần lễ.

Nhưng cuộc chiến còn kéo dài thêm 11 tháng nữa mới chấm dứt. Hằng bao năm sau CIA mới cho biết là họ không biết gì về kế hoạch đề nghị bao vây Hà Nội với 3 sư đoàn rưỡi. Trí nhớ của cơ quan CIA tỏ ra quá kém vì chính họ cũng đã từng nói không biết gì về cuộc tập kích đã xảy ra tại Sơn Tây. Hồ sơ lưu trữ tài liệu của họ có vẻ không đầy đủ. Một vị phó giám đốc CIA có giải thích: “Không có tài liệu gì nhiều về chuyện Sơn Tây được viết ra trên giấy”. Một vài tài liệu lưu trữ quan trọng tại Lầu Năm Góc dường như cũng bị thất lạc, các tủ hồ sơ đã được “tinh giản” lại vào năm 1973. Trí nhớ của một vài người đã tham dự việc thiết lập kế hoạch cuộc tập kích có khi còn tỏ ra sáng suốt hoặc có khi lại quá e dè không muốn tiết lộ điều gì. So sánh với thời gian vào năm 1970 thì ngày hôm nay có nhiều chuyện liên hệ với cuộc tập kích Sơn Tây mới được hé mở ra cho nhiều người biết. Tuy nhiên nhiều điều thắc mắc vẫn còn tồn tại.

Trái với dư luận lúc bấy giờ, việc tình báo yểm trợ cho cuộc tập kích đã tỏ ra có hiệu quả cao. Nhưng có phải vì kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch đã bị giới hạn trong việc không cần phải chém giết nhiều không? Nếu cuộc tập kích được xuất phát ngay sau khi Lầu Năm Góc phát hiện có tù binh Mỹ ở Sơn Tây thì liệu rằng số tù binh này có được giải cứu kịp thời không? Phải chăng Lầu Năm Góc đã quên một trong những phương châm hành động ưa thích nhất của tướng Marvin C. Patton: “một kế hoạch tốt được thực hiện một cách dữ dội ngay lập tức còn hay hơn là một kế hoạch hoàn hảo sẽ được thực hiện trong tuần tới?”. Hoặc phải chăng Lầu Năm Góc đã có lý khi cần phải đặt ra một kế hoạch không những chỉ tốt mà lại còn phải hoàn hảo để cho Simons và các toán lính của ông ta có thể nhảy vào và ra khỏi Bắc Việt Nam an toàn, nếu không cứu được tù binh nào cả?

Tuy nhiên nếu hệ thống tình báo yểm trợ cuộc tập kích là một hệ thống có hiệu lực thì tại sao họ phải đợi đến phút chót mới khám phá ra được việc tù binh đã bị di chuyển đi chỗ khác trước đó bốn tháng rưỡi vì một trận lụt? Hoặc phải chăng họ đã biết trước điều đó nhưng không nói cho các chuyên viên kế hoạch tập kích được biết - họ cũng không nói cho những người đã sẵn sàng hi sinh tính mạng để thi hành kế hoạch đó.

Một nhân viên cao cấp của giới tình báo sau này có xác nhận là tin tức tù binh bị di chuyển đã được biết trước cuộc tập kích, nhưng chỉ có một số ít người biết được chuyện này thôi. Ông ta đã nói thẳng trong một cuộc thẩm vấn có ghi âm: “Vào tháng bảy năm 1970 có một trận bão dữ dội tại Bắc Việt Nam. Con sông chảy qua Sơn Tây bị ngập lụt, khi còn cách vòng rào trại tù độ hai bộ thì nước ngừng dâng cao. Nhà cầm quyền Bắc Việt tỏ vẻ lo âu cho nên đã sơ tán tù binh ra khỏi Sơn Tây”.

Khi được hỏi ông ta biết việc này trước hay sau khi xuất phát cuộc tập kích, thì ông ta trả lời ngay: “được biết trước vào tháng bảy. Nhưng đến tháng chín thì có một số người lại được đưa về đó. Tôi muốn nói rõ là “một số người” nhưng chúng tôi không biết chắc là ai. Đây là phần chính của câu chuyện. Tôi không biết là nguồn tin này có được nhiều người biết đến không, nhưng có điều chắc chắn là tù binh đã bị sơ tán vì mưa và bão lụt vào tháng bảy”.

Không biết các trận lụt vào tháng bảy có phải do chiến dịch “Mở mắt” gây ra hay không? Các chiến dịch mưa nhân tạo này được thực hiện tại Bắc Việt Nam vào năm 1967 và 1968, sau đó lại chuyển sang Lào từ 1969 tới 1972 đã giữ kín nhiều điều bí mật về cuộc chiến Việt Nam. Trong một cuộc điều trần tối mật tại Uỷ ban đối ngoại Thượng viện vào tháng 3 năm 1974, các nhân chứng đã tuyên bố rằng các nguồn tin liên quan đến chương trình chiến dịch này là quá quan trọng và bí mật đến nỗi các cố vấn thân cận nhất của Tổng thống cũng không được phép biết. Một nhân chứng thuộc binh chủng không quân đã giải thích rằng tài liệu liên hệ tới “Mở mắt” được bảo mật ở mức độ cao nhất vì ngay cả các tin tức về chiến dịch cũng không được tiết lộ cho Uỷ ban An ninh quốc gia biết. Uỷ ban này có một bộ phận liên lạc với các cơ quan được thành lập năm 1972 nhưng chính bộ phận này cũng không được biết gì về chiến dịch “Mở mắt” trong khi cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn, và mỉa mai thay nhiệm vụ chính của bộ phận này lại là để tìm hiểu việc sử dụng các hoạt động có liên quan đến thời tiết và địa lý như là một loại vũ khí chiến tranh. Một nhân chứng khác nữa là vị phụ tá cho thứ trưởng quốc phòng đặc trách công việc Đông Nam Á và Thái Bình Dương, người mà lực lượng phản ứng nhanh của Lầu Năm Góc tại Việt Nam phải trình báo mọi việc - đã thú nhận rằng: “Lần đầu tiên tôi biết đến chiến dịch này là do đọc một bài báo của Jack Anderson”. Nhưng ông ta không phải là nhân vật quốc phòng cao cấp duy nhất đã bị che giấu. Ngay chính cả Bộ trưởng Quốc phòng Laird cũng đã nói với Uỷ ban đối ngoại Quốc hội vào năm 1972 rằng: “Chúng ta chưa hề thực hiện một chiến dịch nào vào loại như vậy tại Bắc Việt Nam”. Hai năm sau, vào năm 1974 ông ta đã phải viết cho thượng nghị sĩ Fullbright biết là ông ta vừa mới được báo cáo về các hoạt động như vậy đã thực hiện. Không giải thích lý do vì sao một nhân vật dân sự cao cấp số một tại Lầu Năm Góc như ông ta mà lại bị che giấu việc đó. Trong bức thư Laird chỉ bày tỏ sự đáng tiếc là các nguồn tin liên hệ đã không được thông báo cho ông ta biết trước.

Không biết có phải vì lý do bảo mật tuyệt đối trong các cơ quan về chiến dịch “Mở mắt” hay không được biết về các tù binh đã được di chuyển đi nơi khác lúc nào, tại sao? Carver ở cơ quan CIA không tìm thấy được việc liên hệ nào giữa trận lụt và việc di chuyển tù binh đối với chiến dịch “Mở mắt”. Ông ta nhớ lại mặc dù sự ghi nhớ này là sai lầm. Có một vài công tác “Mở mắt” đã được thực hiện trên vùng trời phía tây Sơn Tây vào mùa hè năm đó và ông ta có nói: “Tôi nghĩ rằng các anh đã bị các trận mưa ấy làm ướt hết cho nên cứ thắc mắc mãi về điều đó”. Nhưng vào năm 1976 thì Carver thú nhận là lúc bấy giờ ông ta thậm chí không nghĩ đến chuyện nối liền các sự việc xảy ra với nhau. Một chuyên viên tình báo cao cấp khác sau này lại xác nhận là cơ quan của ông ta đã biết rõ việc tù binh bị di chuyển vào tháng 7 hoặc đầu tháng 8. Được hỏi là các chuyên viên kế hoạch tập kích có được thông báo cho biết trước về việc này không thì ông ta đáp: “Có chứ, có chứ! Nhưng chỉ báo cho cấp trên của Manor biết mà thôi”. Các vị Tư lệnh Tham mưu hỗn hợp có được báo cáo về việc này không? Ông ta đáp lại: “Điều này hơi khó trả lời. Có lẽ quý vị ấy đã không được thông báo”.

Bằng chứng hiển nhiên là không có một người nào trong nhóm kế hoạch Sơn Tây được thông báo về việc này. Chính Blackburn sau này có nói: “Tôi sẽ xử lý ngay tên nào đã biết tù binh bị sơ tán, hoặc đã nghĩ đến chuyện đó mà lại không cho tôi biết”. Mặc dù cơ quan DIA có trong tay đầy đủ hình ảnh rõ ràng về trận lụt khi nó đang xảy ra nhưng Mayer vẫn cứ khăng khăng cho rằng không ai biết việc tù binh bị di chuyển, mãi đến tháng 11 mới được hay tin ấy. Mayer nói: “Tôi sẽ sẵn sàng trực điện gọi ngay kẻ nào đã phát biểu điều đó - nó là một tên nói dối”. Moorer cũng chối là ông ta không hề hay biết gì về tin tức ấy. Mãi cho đến buổi tối trước ngày cuộc tập kích Sơn Tây được xuất phát thì các chuyên viên kế hoạch mới được biết tin tù binh đã di chuyển, qua nguồn tin ở trong bao thuốc lá của Nguyễn Văn Hoàng. Nhưng lúc ấy mọi người vẫn tin tưởng rằng đã có một số người nào khác được chuyển về lại Sơn Tây.

Số lượng và chất lượng của các nguồn tin tình báo cung cấp cho nhóm kế hoạch Sơn Tây quả thực là đáng khen. Nếu không thì Simons và lính của ông ta đã không thể đổ bộ vào và thoát ra khỏi Sơn Tây an toàn, cho dù có cứu được hay không cứu được tù binh. Nhưng nhìn ở khía cạnh khác thì việc lập kế hoạch, việc thi hành và giai đoạn sau cuộc tập kích cần phải được xem xét lại dưới ánh sáng các nguồn tin mà họ đã “không” được thông báo. Đợi cho đến phút chót họ mới biết được số tù binh mà họ hy vọng giải cứu đã bị di chuyển. Đợi cho đến phút chót Blackburn mới biết được việc CIA có gài một điệp viên vào vùng phụ cận Sơn Tây, và hoạt động của điệp viên này có thể gây nguy hại cho việc bảo toàn an ninh của cuộc tập kích. Chỉ có Moorer và Don Bennett ở cơ quan DIA được biết trước mà thôi. Còn Blackburn thì được biết do một sự tình cờ sau này. Mãi cho đến sau khi cuộc tập kích đã chấm dứt, các chuyên viên kế hoạch mới hiểu được nguyên nhân nào đã khiến Lầu Năm Góc và Nhà Trắng có ý định tiến hành những cuộc oanh kích rầm rộ trên vòm trời Bắc Việt Nam vào cùng một thời điểm với cuộc tập kích Sơn Tây.

Nhưng dù sao thì Blackburn và các chuyên viên kế hoạch Sơn Tây khác cũng đã biết nhiều tin tức hơn là Manor, người chỉ huy toàn diện cuộc tập kích và Simons người thực hiện cuộc tập kích. Tại sao Manor và Simons lại không được báo cho biết trước là trại tù có thể bị bỏ trống? Trong một cuộc hành quân mà mỗi phút mỗi giây đồng hồ đều phải được tính đến có lẽ các chuyên viên kế hoạch đã nghĩ đến việc nếu tuyên bố sẽ tiến công một trại tù bỏ trống thì điều này gây nên ảnh hưởng tâm lí trái ngược cho các toán tập kích. Dù với lý lẽ nào đi nữa, dù các toán tập kích đã không được biết trước, dù tin tình báo cho biết tù binh đã bị di chuyến, nhưng với nguồn tin sau cùng là đã có một nhóm khác mới dọn về Sơn Tây, thì cuộc tập kích vẫn nên được xuất phát như đã ấn định.

Tại sao vậy? Tại sao một cuộc tập kích trước đây đã được đánh giá là có tới 95% thành công mà nay chỉ còn có từ 10 hoặc 20 hoặc cao hơn nữa là 50% may mắn mà vẫn được thi hành? Vị phó tham mưu trưởng lục quân là Palmer đã nhấn mạnh cho biết là các vị tư lệnh hỗn hợp, trước cuộc tập kích, chưa bao giờ được ai báo cáo cho biết việc chỉ có 50 hay trên 50% may mắn thành công. Còn Carver ở cơ quan CIA - vị giám đốc của cơ quan này đã tuyên bố không được hỏi ý kiến gì về cuộc tập kích thì nói là vào phút chót các đường dây liên lạc bị trắc trở. Điều này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng trại tù đã bị bỏ trống. Ông ta còn nói thêm: “Có một suy luận cho thấy là tù binh đã di chuyển đi nơi khác”. Vào phút chót đã xảy ra một cuộc tranh luận qua đường dây điện thoại giữa Carver và Laird về việc quyết định có nên thi hành cuộc tập kích hay không?

Nhưng Mayer sau này nhớ lại là theo sự hiểu biết của ông ta thì việc trại tù bị bỏ trống là một bằng chứng hiển nhiên và nếu không phải là do Don Blackburn phụ trách kế hoạch này thì công tác đã được đình hoãn lại. Để tự bênh vực, Blackburn lại cho rằng không có bằng chứng nào hiển nhiên cả. Ông ta nói: “Nếu tôi được biết trước là có bằng chứng hiển nhiên như vậy thì tôi đã huỷ bỏ ngay kế hoạch”. Tuy nhiên ông ta vẫn trung thực bày tỏ thêm: “Thực ra thì tôi không muốn biết tới bằng chứng đó. Tôi vẫn muốn thi hành. Tôi tìm đủ mọi cách để có thể giữ cho công tác được tồn tại. Tôi vẫn muốn chứng tỏ là chúng ta có thể xâm nhập vào đó và quấy phá bọn địch một vố chơi. Lẽ tất nhiên tôi vẫn muốn tìm thấy tù binh; nhưng tôi không muốn biết sự thật, tôi vẫn cố bám víu vào bất cứ một bằng chứng mong manh nào để thi hành cho được công tác. Việc này còn quan trọng hơn, to lớn hơn là việc giải thoát tù binh. Vẫn còn quá nhiều người không có một khái niệm nào để hiểu cho thấu mục đích của sự việc hoặc những gì chúng ta có thể thực hiện được”.

Như vậy thì cuộc tập kích Sơn Tây đã thực hiện được điều gì? Vài người thân cận của Blackburn sau này cho biết rằng nó đã chứng tỏ điều duy nhất là khó huỷ bỏ một chiến dịch một khi đã có các chuyên viên kế hoạch quân sự nhúng tay vào, và nhất là một khi các vị tư lệnh hỗn hợp và Lầu Năm Góc đã đứng sau lưng để hỗ trợ. Đấy là sức nặng của nền hành chính quân sự. Sự nhiệt tâm và hăng hái của Blackburn, khả năng có một số người khác đã được đưa về lại Sơn Tây, sự tuyệt vọng của tù binh tại Bắc Việt Nam - tất cả những điều đó chắc chắn đã gây ảnh hưởng tới quyết định cuối cùng của Laird: cho thi hành công tác vào phút chót. Cũng như các nhóm cố vấn, cũng như chính Tổng thống, ông ta muốn thử liều một chuyến xem.

Có điều mỉa mai là cũng chính Lầu Năm Góc đã may mắn thoát khỏi một sự thất bại trong khi thiết lập kế hoạch và được tin trại tù Ấp Lò đã bị bỏ trống. Nhưng nguồn tin về việc Sơn Tây bị bỏ trống lại được đưa đến vào phút chót, cộng thêm với hai báo cáo nhận được trong 10 ngày cho biết 5% tù binh đã bị chết trong các trại tù ở Bắc Việt Nam. Vì lẽ đó các nhân vật quyết định chỉ còn có một thời gian ngắn để đấu tranh tư tưởng giữa việc hoặc là bãi bỏ công tác để tránh thất bại hoặc là vẫn liều lĩnh cho thi hành.

Việc liều lĩnh như vậy có đáng giá không? Các binh sĩ tập kích Sơn Tây đã thất bại trong việc giải cứu tù binh. Sự thất bại của cuộc tập kích đã đưa Lầu Năm Góc và Nhà Trắng vào việc phải đương đầu thêm với các dư luận chỉ trích về việc giải quyết cuộc chiến Việt Nam.

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU

Chương I. TRẠI TÙ SƠN TÂY

Chương II. MỘT VÙNG BÍ HIỂM

Chương III. “BỜ BIỂN NGÀ”

Chương IV. CHIẾN DỊCH KINGPIN

Chương V. RỐI NHƯ TƠ VÒ

VỤ TẬP KÍCH SƠN TÂY

Chịu trách nhiệm xuất bản:

TRẦN DIỄN

Biên tập:

TRẦN CAO KIỀU

Trình bày:

NGUYỄN THỊ DUNG

Vẽ bìa:

DUY NGỌC

Sửa bản in:

CHÂU DƯƠNG

In 1.000 cuốn khổ 13 x 19 cm tại Xí nghiệp in Sơn La. Giấy chấp nhận đăng ký kế hoạch xuất bản số 60/507-CXB. In xong và nộp lưu chiểu quý III năm 2001.

([1]) Tên sách do nhà xuất bản đặt.

([2]) William Pierce Rogers (1913-2001): Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ 1969-1973.

([3]) Melvin Robert (Bom) Laird (sinh năm 1922): Nhà chính trị, nhà văn Hoa Kỳ. Laird là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong chính phủ của Tổng thống Richard Nixon từ 1969 đến 1973. Laird đã thuyết phục Nixon rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Ông ta tạo ra thuật ngữ “Vietnamization” hay Việt Nam hóa chiến tranh.

([4]) Henry Alfred Kissinger: Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Richard Nixon.

([5]) Richard McGarrah Helms (1913-2002): Giám đốc Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ CIA 1966-1973.

([6]) Defense Intelligence Agency: Cục tình báo quân sự Hoa Kỳ.

([7]) Central Intelligence Agency: Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ.

([8]) 1 hải lý bằng 1,852 km.

([9]) Một dặm bằng 1,609 km.

([10]) Thomas Emmett Hayden: Sinh ngày 11-12-1939. Ông là một nhà hoạt động xã hội và chính trị của Hoa Kỳ, là một chính trị gia. Ông nổi tiếng là người có quan điểm chống chiến tranh và bảo vệ quyền con người những năm 60 thế kỷ XX. Ông từng là chồng của nữ diễn viên nổi tiếng Jane Fonda.

([11]) USAF’s 1127th Field Activities Group (1127th FAG)

[[12]] Tức Biển Đông.

[[13]] Cora Weiss: Nhà hoạt động xã hội và chính trị Hoa Kỳ. Bà là Chủ tịch Hội Hoà bình Quốc tế (International Peace Bureau) từ năm 2000-2006. Trong chiến tranh Việt Nam, bà Cora Weiss là một người hoạt động tích cực, từng giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, đồng thời cũng là người đã rất nỗ lực vận động cho Việt Nam gia nhập Liên hiệp quốc.

([14]) William C. Westmoreland (1914-2005): Tư lệnh quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam từ 1964 đến 1968.

([15]) Donald V. Bennett: Tướng bốn sao, Giám đốc DIA từ 1969 - 1972.

([16]) United States National Security Agency: Cục An ninh quốc gia Hoa Kỳ.

[17] Các tàu phóng ngư lôi của Triều Tiên đã tấn công và bắt tàu gián điệp USS Pueblo của Mỹ ngày 23-01-1968, trong khi tàu này đang thực hiệp điệp vụ thu thập thông tin tình báo. Có một người thiệt mạng trong số 83 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu. Ngày 23-12-1968, Triều Tiên quyết định trả tự do cho các thủy thủ tàu USS Pueblo ngay trước lễ Giáng sinh, sau 11 tháng bị giam. Bình Nhưỡng luôn khẳng định tàu gián điệp này đã xâm phạm lãnh hải của mình, trong khi hải quân Mỹ một mực cho rằng nó đang hoạt động ngoài vùng biển quốc tế thì bị bắt. Sau vụ bắt giữ gây chấn động năm 1968, tàu USS Pueblo được kéo về bến cảng trên sông Taedong ở thủ đô Bình Nhưỡng, để trưng bày cho công chúng tham quan.

([18]) Một loại máy bay được gọi là máy bay Trâu Điên

([19]) 1 hải lý bằng 1,852 km

([20]) 1 bộ bằng 0,3048 mét

([21]) 1 ya-dơ bằng 0,914 mét

([22]) 1 bộ bằng 0,3048 mét

([23]) 1 inh-sơ bằng 2,54 cm

([24]) James William Fulbright (1905-1995): Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Fulbright là người sáng lập chương trình trao đổi quốc tế, quỹ học bổng mang tên ông, Fulbright Fellowships. Fulbright cũng là vị chủ tịch lâu nhất của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ.

([25]) 1 bộ bằng 0,3048 mét

([26]) 1 pao bằng 0,453 kg

([27]) 1 Knốt bằng 1.852 km

([28]) 1 ya-đơ bằng 0,9144 mét

1 comment: